Mạo hiểm gia Arnold thở dài nhẹ nhõm khi anh và cô con gái trú mình trong một căn chòi bỏ hoang.
“Cha nghĩ là chúng ta sẽ ổn thôi. Elly, mọi chuyện rồi cũng sẽ ổn thôi.”
“Thật sao? Cha chắc chứ?”
Anh nhẹ nhàng đặt cô gái trên lưng mình xuống. Trời tối mịt, và sẽ an toàn hơn cho cô bé khi hai người họ di chuyển kiểu này.
Ban nãy, trước khi mặt trời lặn, hai cha con đã phải trú khỏi một cơn mưa nhẹ bằng cách dựng lên một tấm vải để che chắn dưới một cái cây. Nhưng vừa lúc bắt đầu tối trời, cơn mưa rả rích kia đã trở thành một trận mưa ào ào như trút. Tấm vải kia chẳng còn che chắn được mấy nữa và bị gió cùng mưa thổi tứ tung.
Cơn bão mạnh đến nỗi nhóm lửa của họ bị dập tắt ngúm gần như ngay lập tức. Arnold hiểu là nếu họ nấn ná ở đây cho đến sáng, cái lạnh sẽ giết chết cả hai người. Và thế là anh cầm lấy chiếc đèn bão, cõng cô gái bé nhỏ lên, và rời đi trong đêm tối mịt mùng.
Anh đã quyết định chính xác. Họ cũng chưa phải đi quá xa trước khi Arnold gặp được căn chòi này.
“Elly, nhanh lên và thay quần áo khô vào đi, nhé?”
“Vâng.”
Sau khi kiểm tra xem cô con gái có thực sự làm cái việc mà anh đã bảo không, Arnold với lấy chiếc túi da chắc chắn và lôi một bộ quần áo của mình ra.
Anh dành mấy phút lau người bằng bộ quần áo ướt, lạnh của mình trước khi thay vào một bộ khô. Giờ thì anh đã sẵn sàng để kiểm tra nơi trú ẩn mới này của hai người.
“Chà, thế này có vẻ ổn rồi. Chúng ta sẽ không cần phải lo về cơn mưa nữa đâu.”
Theo như những gì anh có thể thấy, căn chòi này được dựng lên bởi một vài quý tộc nào đó. Mục đích của nó ai mà biết được chứ. Cả căn chòi được xây dựng một cách chắc chắn, có nghĩa là mưa gió sẽ không phải là vấn đề; họ thậm chí còn chẳng nghe thấy âm thanh gì từ cơn bão ngoài trời ấy chứ.
Dù thế, nơi này vẫn bụi bặm không thể tưởng tượng được.
Arnold đoán rằng nơi này có lẽ đã vài năm rồi chưa có người sử dụng. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là sẽ chẳng có ai có ý kiến gì nếu họ trú chân tại đây cho đến khi trận mưa tồi tệ kia chấm dứt.
“Giờ thì, hy vọng là có chút củi ở quanh đây...”
Nhưng chàng mạo hiểm giả lại phải thất vọng khi thấy rằng mặc dù căn chòi này có lò sưởi, nó lại chẳng còn chút củi đốt nào. Anh nắm tay Elly.
“Đi nào, Elly. Đến lúc đi khám phá chút rồi.”
“Okay.”
Giờ khi đã thay quần áo sạch, cô gái bé nhỏ gật đầu và nắm lấy tay của Arnold. Cân nhắc đến chuyện nguồn ánh sáng duy nhất tại đây đến từ chiếc đèn bão bé nhỏ trên tay anh, anh biết là cô bé có lẽ đang rất sợ. Những ngón tay bé bỏng của cô bấu chặt vào anh.
Nghĩ lại thì, nơi này có khi bị ma ám rồi cũng nên.
Vừa mới thoáng nghĩ đến điều này, Arnold với tay vào túi để xác nhận lại rằng anh vẫn còn giữ lọ nước thánh.
Những căn nhà kiểu này, sau một vài năm bị bỏ hoang, thường bị ám bởi những linh hồn của những người chủ cũ. Những nơi đó được gọi là “những căn nhà ma ám”. Nếu may mắn, bạn chỉ gặp phải một con ma vô hại thôi. Sống cạnh một con ma như vậy một vài ngày thì cũng chẳng hại gì đến thân, chỉ có hơi đáng sợ thôi.
Tuy nhiên, nếu mà đụng độ phải một oán hồn, cách duy nhất là chỉ có bỏ chạy nhanh hết sức có thể thôi.
Là một chiến binh với trang bị giản đơn lại còn có một cô nhóc đi theo, một oán hồn thì là hơi khó để Arnold có thể đương đầu một mình.
“Được rồi, đi nào,” Arnold nói.
“Vâng,” Elly trả lời.
Arnold có thể cảm thấy sức mạnh tích tụ dần trong lòng bàn tay mà Elly đang nắm lấy. Vợ anh đã mạo hiểm tất cả mọi thứ để bảo vệ được cô con gái này khỏi quái vật. Không cần biết điều gì sẽ xảy ra, Arnold phải dốc sức bảo vệ cho cô con gái của hai người được an toàn.
Đó là lý do anh từ bỏ công việc mạo hiểm giả của mình và băng qua bao nơi hiểm nguy; để anh có thể đưa cô đến nhà của bố mẹ anh, ở tận thị trấn quê hương nơi họ mở một cửa hàng vũ khí.
“Được rồi, bắt đầu từ đây nào.”
Một cánh cửa trông nổi bật hẳn so với những cái khác trong căn chòi: một cánh cửa đẹp đẽ với cái tay nắm mới tinh. Arnold đặt tay lên, kiểm tra xem nó có bị khoá không. Có vẻ như thứ này có một cơ cấu khoá thật, nhưng hiện nó đang không được kích hoạt.
Arnold mở cánh cửa một cách nhanh chóng và dứt khoát.
***
Tiếng chuông vang lên khi cánh cửa mở ra.
“Whoa?!”
“Aaah!!”
Và đột nhiên, cả Arnold và Elly đều chói loà bởi một thứ ánh sáng rực rỡ.
“Ồ? Xin chào! Mọi chuyện ổn chứ? Cũng khá muộn rồi nhỉ.”
“Có vẻ quý khách bị ướt. Hai quý khách có ổn không ạ?”
Arnold nghe thấy những giọng nói hướng đến mình. Theo như những gì anh có thể nhận ra được, một giọng nói đến từ một người đàn ông trung tuổi, còn giọng nói còn lại nghe có vẻ như đến từ một cô gái trẻ.
Ugh, mình nên làm gì đây?!
Anh đã vô tình đi lạc vào một căn phòng sáng trưng với những người lạ ở trong. Chẳng phải căn chòi này bị bỏ hoang sao?
Arnold nhận thấy mình cần phải quyết định làm một trong hai việc sau ngay lập tức: chào hỏi họ như những người bạn hoặc tấn công họ như những kẻ thù. Anh cần phải ra lựa chọn, và anh cần phải làm vậy thật nhanh.
“Cha...”
Elly sợ hãi; cô bé bấu chặt vào tay áo của cha mình.
Đó cũng là khi bên kia bắt đầu có động tĩnh.
“Hai người chắc phải lạnh lắm, đúng không? Aletta, cháu có thể lấy cho ta một cái khăn không?”
“Vâng, được ạ!”
Cặp đôi phía trước họ mở lời một cách thân thiện, trìu mến, nhưng bàn tay của Arnold đã nắm chặt lấy chuôi của thanh kiếm đeo trên hông.
Quan sát kỹ hơn, cô gái trẻ vừa biến mất vào phía trong kia có vẻ là một quỷ nhân. Còn người đàn ông đứng tuổi ở trong phòng kia thì chậm rãi đứng dậy và cúi đầu trước Arnold và Elly.
“Chào mừng đến với Nhà hàng Ẩm thực phương Tây Nekoya.”
“N-Nekoya...?”
Arnold nghiêng đầu bối rối trước một từ nước ngoài lạ lẫm. Ông chủ tiếp lời.
“Vâng, đó chính là tên của nhà hàng này! Những vị khách từ phía bên đó thường gọi nơi này là ‘Nhà ăn của Thế giới Khác’. Đáng tiếc thay, nhà hàng của chúng tôi lại đóng cửa mất rồi, nhưng có vẻ như cả hai vị đều đang gặp khó khăn thì phải. Tất cả những gì chúng tôi có thể phục vụ hiện giờ chỉ có chút đồ ăn còn sót lại, nhưng nếu được, hai vị có muốn tôi chuẩn bị chút gì không?”
Lời nói của ông chủ ồ ạt truyền từ tai này sang tai kia của chàng mạo hiểm giả. Tất cả những gì anh có thể cảm nhận được là bàn tay cô con gái nắm chặt lấy tay áo của anh.
Cùng với tiếng bụng reo lên một cách đáng yêu của cô bé nữa.
Arnold và Elly lau khô người và tóc bằng một thứ vải kỳ lạ mà người đàn ông trung tuổi kia gọi là “khăn”. Nó hút nước cứ như ma thuật vậy. Giờ khi họ đã khô ráo, hai cha con ngồi xuống và quan sát căn phòng lạ kỳ xung quanh họ.
“...Nơi này hay quá.”
“Đúng nhỉ.”
Elly chưa từng được rời thị trấn kể từ lúc sinh ra, nhưng kể cả nếu cô bé đã từng, nơi này vẫn sẽ cực kỳ đáng ngạc nhiên với cô. Arnold cũng chẳng thể nào mà không cảm thấy như vậy. Anh là một mạo hiểm giả, người đã kinh qua đủ mọi tình huống hiểm nguy trên đời, nhưng nơi này vẫn lạ lẫm với anh giống như đối với cô bé vậy.
Có một dãy bàn ghế, tất cả đều được đánh bóng và được giữ gìn cẩn thận. Căn phòng thì sáng rực như ban ngày, mặc dù chẳng có một lò lửa hay một cái đèn lồng nào. Trời ạ, mặc dù chẳng có tý lửa nào, căn phòng vẫn ấm như đang là mùa xuân vậy.
Bên trên mỗi chiếc bàn là một lọ thuỷ tinh nhỏ chứa một chất gì đó, cùng với một lọ sứ con con.
Arnold liếc nhìn về phía cánh cửa mà anh cùng con gái vừa mới đi qua. Theo lời ông chủ, nó là một cánh cửa kết nối thế giới của anh với thế giới bên này.
Vậy là có ai đó đã xây riêng căn chòi này để chứa cánh cửa sao?
Chàng mạo hiểm giả bắt đầu nghĩ ngợi. Một cánh cửa mà chỉ xuất hiện một lần mỗi bảy ngày. Việc một ai đó biết đến nó và xây một căn chòi lên xung quanh để họ có thể đi sang thế giới khác một cách thuận tiện hơn là hoàn toàn khả thi.
“Cảm ơn vì đã chờ đợi! Đây là sữa ấm của cả hai vị.”
Và khi Arnold còn mải ngẫm nghĩ, Aletta đã mang ra món đồ đầu tiên của họ. Sữa bò ấm, thứ mà cả Arnold lẫn Elly đều vô cùng quen thuộc.
Mùi sữa thơm toả ra từ chiếc cốc sứ lớn đã thổi bay đi bao nhọc nhằn đè lên đôi vai họ.
“Ông chủ thông báo là ông đang hâm nóng lại đồ ăn, nên xin quý khách vui lòng đợi một lát ạ.”
Nói xong, Aletta quay lại vào trong bếp.
“...Ấm áp dễ chịu quá.”
“Vâng. Ngon nữa ạ.”
Cả Arnold và Elly đều thở dài một hơi thoả mãn.
Hơi ấm của sữa là một món quà tuyệt vời đối với hai người họ. Cả hai bố con lặng im ngồi uống.
Mỗi một ngụm sữa, cơ thể họ lại ấm dần lên, nhắc nhở cái bụng rằng thứ cuối cùng mà họ được ăn là đống đồ ăn dự trữ nguội lạnh mà họ đã ăn mấy tiếng trước khi trời còn sáng.
“Chẳng biết chúng ta sẽ được ăn món gì đây nhỉ,” Arnold thầm thì.
“Chẳng biết ạ...”
Elly gật đầu đồng tình. Ông chủ đã nói rằng ông không còn nhiều nguyên liệu. Ông chủ chính ra cũng cảm thấy buồn khi mà súp lại là món duy nhất mà ông có thể phục vụ họ. Một món súp của thế giới khác.
Nhưng ăn mày thì không thể đòi xôi gấc, và hơn thế nữa, giá thành của món ăn đó sẽ phù hợp với túi tiền của Arnold hơn.
Vậy nên mặc dù cả hai đều chẳng rõ là mình sẽ được phục vụ thứ gì, họ vẫn có thể chắc chắn rằng thứ đó sẽ là đủ để lấp đầy cái bụng trống rỗng của mình.
Ngay khi hai người vừa uống xong cốc sữa ấm, ông chủ đã xuất hiện ở phía trước họ với hai cái tô trên tay.
“Cảm ơn vì đã chờ đợi. Đây là món pot-au-feu của hai người.”
Người đàn ông đứng tuổi nhẹ nhàng đặt món ăn chính xuống bàn của hai cha con.
“Wow, trông đẹp quá.”
Chiếc đĩa sâu đựng súp có chứa những miếng rau củ lớn và những lát xúc xích dày.
Bên cạnh đĩa súp là một chiếc thìa bạc lớn, cùng với hai ổ bánh mỳ mới ra lò, mỗi chiếc bằng với bàn tay của Elly. Mùi thơm toả ra từ hai thứ này quả thực vô cùng tuyệt vời.
Arnold ngước lên nhìn ông chủ. “Ông có chắc cha con tôi ăn thế này ổn không? Thế này là quá nhiều so với những gì tôi tưởng tượng đấy.” Anh có thể cảm thấy miệng mình đang ứa nước.
Thông thường, khi ai đó nói “đồ ăn còn thừa”, họ ám chỉ đến những phần thịt không dùng đến hoặc một món súp làm từ những phần rau bỏ lại của những món ăn khác. Cũng có khi chỉ là một mẩu bánh mỳ cứng với một lát phô mai mà thôi.
Chẳng thể nào mà Arnold có thể nhìn tô súp trước mặt mình mà chỉ thấy được rằng nó là một tô súp hẳn hoi, tử tế, vừa được làm cho họ.
Nhưng ông chủ chỉ đơn giản gật đầu.
“Yeah. Tôi cũng chỉ mới làm nó thật nhanh từ những phần rau củ và xúc xích còn lại trong kho thôi. Ồ, và hai người có thể gọi thêm bánh mỳ và súp miễn phí, nên xin hãy cứ dùng tự nhiên nhé. Xin mời thưởng thức!”
Nói xong, ông chủ quay lại nhà bếp, để lại Arnold và Elly một mình với nhau trong căn phòng ăn yên tĩnh.
Arnold quay sang cô con gái của mình. “Con muốn ăn chứ?”
“Vâng.”
Arnold cũng chẳng định phàn nàn gì về việc được ăn một món ăn trông ngon lành đến như này cả. Quan trọng hơn, cơn đói của anh cũng không thể để bị trì hoãn lâu hơn nữa. Họ bắt đầu ăn tô pot-au-feu của mình.
Súp này ngon bá cháy đấy.
Chỉ một thìa súp đã là đủ để anh nhận ra rằng thứ súp này vô cùng chất lượng.
Arnold có thể cảm nhận được cả vị của những loại củ như củ khoai và karoots, cùng với vị của những lá rau xanh tươi, vị ngọt của oranie, và những lát nấm dày. Anh cũng cảm nhận được thứ mà anh cho là vị của xúc xích, cùng với vị của bơ đã hoà quyện trong nước cốt.
Nhưng bí ẩn lớn nhất của món súp là Arnold còn có thể nếm được hương vị của cả những phần rau và thịt mà hình như còn không có mặt trong tô nữa. Và còn một thứ nữa mà anh nhận ra:
Chẳng thể tin được là thứ này được nêm nếm tốt đến mức nào nữa...
Hương vị đậm đà của nước súp đã được nâng tầm bởi vị cay nóng không thể bỏ qua được của hạt tiêu.
Hồ tiêu là một thứ hàng quý giá ở Đông Lục địa. Cân nhắc đến việc Elly đang thích thú với món ăn này đến thế nào – cô bé đã ngồi im thưởng thức súp và bánh mỳ từ nãy đến giờ – có vẻ ông chủ cũng không bỏ quá nhiều tiêu vào trong món ăn. Nhưng dù thế, hương vị nổi bật này thực sự đã làm tăng thêm vị ngon cho toàn bộ món ăn.
Và thứ bánh mỳ này cũng rất tuyệt luôn.
Bề mặt của bánh thì giòn, nhưng bên trong lại mềm và bông xốp. Arnold chưa bao giờ được thưởng thức thứ bánh mỳ nào như thế này từ trước đến giờ.
Đúng hơn, chỉ riêng bánh mỳ không đã đủ để chấm nơi này một điểm mười rồi.
Cùng lúc đó, Elly đã bước lên chuyến đi một chiều đến thị trấn đồ ăn. Không giống như cha mình, cô bé không nắm rõ được các hương vị chi tiết của món ăn. Cô đưa cái đĩa đã hết sạch ra và gọi Aletta.
“Thêm bánh mỳ và pot-au-feu ạ!”
“Ra ngay đây, em nhé!”
Aletta nhanh chóng thu dọn đĩa của cô
bé và mang ra một phần nữa cho cô. Ngồi quan sát bên cạnh, cảm thấy bị hối thúc về mặt thời gian, Arnold cũng bắt đầu tăng tốc. Phần rau được nấu kỹ đến mức mềm tơi ra, mặc dù vẫn giữ được hình dáng ban đầu của chúng. Cắn một miếng làm cho hương vị của súp thấm đẫm bên trong như bùng nổ ra. Miếng xúc xích trong miệng anh cũng trào ra phần nước cốt thơm ngon.
“Xin thứ lỗi, nhưng cho tôi gọi thêm một phần ăn thứ hai nữa với?!”
Hai cha con dùng nốt chỗ bánh mỳ còn lại để thấm nốt phần sốt trước khi gọi thêm một phần cả bánh mỳ cả súp nữa.
Và thế là, hai người cùng nhau tận hưởng một bữa tiệc nho nhỏ, yên tĩnh trong buổi tối hôm đó.
***
Sáng hôm sau, Arnold và Elly bắt đầu một chuyến hành trình mới. Mây đã tan, và mặt trời đang toả nắng.
“Và bữa ăn hôm nay cũng chẳng tệ chút nào.”
“Mm-hmm...”
Cặp đôi nhớ lại bữa sáng bánh mỳ và trứng mà họ vừa mới ăn.
Đêm qua, ông chủ đã cho phép Arnold và Elly ngủ ở một góc tại nhà hàng ấm cúng của ông. Sáng hôm sau, ông đã làm một thứ gọi là “bữa sáng đặc biệt” cho họ trước khi tiễn cả hai lên đường.
“Con mong chúng ta có thể đến được lần nữa...” Elly thở dài.
“Chúng ta sẽ trở lại chứ. Chắc chắn.” Arnold gật đầu và trả lời.
***
Phải mất bốn hoặc năm ngày nữa thì hai người họ mới về đến thị trấn.
Tại đó, cuộc hành trình sẽ kết thúc. Hai cha con sẽ sống một cuộc đời yên ấm và luôn tưởng nhớ đến người vợ, người mẹ của mình.
Khi nào con bé lớn hơn, có khi mình cũng nên quay lại đó...
Elly là tất cả những gì còn lại của người vợ quá cố yêu dấu của anh, và anh sẽ chăm sóc cô thật tốt. Anh nắm chặt lấy đôi tay bé nhỏ của cô con gái của mình.
Lần tới, họ sẽ đến thăm nhà hàng như một khách hàng thực thụ.
Ấp ủ suy nghĩ đó trong đầu, Arnold bước chậm lại để khớp với tốc độ đi của Elly, và hai cha con vững bước hướng về tương lai đang chờ ở phía trước.