Ánh mắt tôi dán chặt lên gã đàn ông đang ăn trước mặt mình.
Vào khoảnh khắc bữa tiệc bắt đầu, lão ta hấp tấp với đến tảng thịt đậm đà rồi cắn lấy nó như một gã cục súc. Sau khi ăn xong, hắn bắt đầu gặm lấy khúc xương còn sót lại để rồi nuốt trọng nó xuống. Xử lý xong, hắn lại chuyển sang món thịt cuộn.
Cách mà lão ta ăn uống quá đỗi tởm lợm và ghê gớm để có thể được gọi là cuốn hút, cứ như thể lão ta đã bị linh hồn của bữa tiệc chiếm hữu lấy thân xác vậy.
Ai ai trong bữa tiệc cũng hoàn toàn tập trung vào bữa ăn trước mặt mình, hệt như lão ta.
Cơ mà trừ tôi ra. Tôi khác họ.
Tôi cấu mạnh móng tay vào da thịt đến khi máu rỉ ra để cưỡng lại cái sự cám dỗ ma quỷ ấy.
Gã đàn ông trước mặt tôi dọn xong món thịt và chuyển sang món súp lòng. Hầu hết khuôn mặt lão bị che khuất mất, khiến tôi không thế nào ngó thấy được vẻ mặt khi đang ngấu nghiến ăn uống của lão trông ra sao.
Tôi bắt đầu mở miệng ra để hét lên với lão, nhưng lại dừng lại vì thứ cảm giác khó tiêu đang quặn lên trong dạ dày mình.
Tôi lẩm bẩm tên cô bé trong trí óc khi siết chặt nắm tay đang cầm lá thư nhàu vò.
❋❋❋
Tôi bỗng giật phắt dậy khỏi giường, nhận ra rằng tất cả chỉ là một giấc mộng. Dường như tôi đã thức giấc sớm hơn mọi ngày; bên ngoài trời vẫn còn tối. Mặc dù thời tiết có mát mẻ nhưng người tôi vẫn ướt đẫm trong mồ hôi.
Hẳn tôi mơ về giấc mơ đó bởi lẽ hôm này chính là ngày ấy.
Tôi lau mồ hôi khỏi trán và ngồi dậy để đi lấy tí nước uống. Chồng tôi đang ngủ say ở phòng bên cạnh.
Tất cả sắp sửa chấm dứt.
Hôm nay chắc chắn chính là ngày cuối cùng tôi mơ thấy giấc mơ kia.
Thời khắc của Clear Kay đã đến.
Đây là chủ đề của lá thư mà tôi đã viết cho triều đình vào hồi đầu tháng. Chồng tôi, hay đúng hơn là sức khỏe của ông ấy, đã bắt đầu sa sút dần đi vào khoảng tháng tư năm ngoái. Ông đã cố hết sức mình để bình phục nhưng chẳng hề mang lại kết quả gì. Theo lời bác sĩ, chồng tôi mắc phải căn bệnh gan đã tiến vào giai đoạn cuối. Bác sĩ ước tính rằng ông chỉ còn chưa đến một năm nữa để sống.
Tình trạng bệnh trở nên nặng hơn sau mỗi ngày, cho đến khi ông không còn có thể tự đứng trên đôi chân của mình nữa. Tôi trở nên quen thuộc với việc cập nhật cho người thân xưa cũ của bọn tôi biết về tình trạng của ông, nhưng đến thời điểm này thì chúng tôi quyết định đã đến lúc phải gọi họ đến.
Tiếng gõ cửa đầu tiên vang vọng qua căn nhà một chốc sau khi bọn tôi ăn sáng xong. Mở cửa ra, tôi gặp mặt người mà mình đã xa cách suốt nhiều năm trời: Saliman, người tập sự năm xưa của chồng tôi, và là đầu bếp hoàng gia đương nhiệm.
"Cũng đã lâu lắm rồi, thưa phu nhân."
Khi ngó nhìn qua khe cửa, tôi được chào đón bởi điệu bộ hiền hậu và lịch thiệp. Vẫn là cái điệu bộ như hồi thuở xưa, hồi lúc mà cậu ta còn sống trong triều đình. Một chàng trai trẻ tôi không hề quen mặt đang đứng phía sau Saliman và chào tôi theo lối tương tư. Khi dẫn họ tới phòng chồng tôi, Saliman và tôi có một cuộc trò chuyện ngắn ngủi:
"Mẹ cháu bảo rằng bà ấy sẽ đến đây sớm nhất có thể. Sức khỏe thầy ra sao rồi ạ?"
"Ông ấy ổn, vào lúc này thôi. Ông ấy vẫn có thể ăn uống mà không mắc phải trở ngại gì, và hôm nay thì tình trạng đã ổn định. Nhưng bác sĩ bảo là chỉ còn một tháng nữa thôi."
Vẻ mặt Saliman trở nên ảm đạm khi nghe thấy những lời tôi nói ra. Tôi gõ cửa phòng chồng mình mà chờ đợi lời đáp trước khi mở cửa ra, để rồi thấy ông đang ngồi đọc thứ gì đó trên giường.
"...Thầy ơi."
"Ồ, Saliman. Lâu quá không gặp cậu."
Chồng tôi khoác lên mình nụ cười não nề khi ông thấy mặt cậu học việc của mình. Ngược lại, Saliman đưa ra một khuôn mặt với vẻ đau xót thầm lặng.
"Tôi nghe bảo cậu vừa được gần đây, ổn cả chứ? Hình như cậu có sụt cân đôi chút đấy. Ừm, tôi đoán người như tôi đây mà nói năng về cân nặng của cậu thì lạ lùng thật."
Chồng tôi, người đã nghỉ hưu khỏi nhà bếp hoàng gia năm năm về trước, từng là một lão già vạm vỡ nhưng giờ đây lại gầy ốm hơn trông thấy so với bất kỳ ai trong phòng, dù cho có đang bận đồ ngủ. Hốc mắt nằm sau cặp kính lõm vào trong. Đôi tay từng huơ những chiếc nồi, chiếc chảo nặng nề nhất một cách dễ dàng giờ đây đã trở thành những cành cây héo úa. Saliman giữ im lặng, vẫn mang trên mình cái biểu cảm u sầu ấy trong khi chồng tôi cười nói với khuôn mặt hồ hởi. Ông cũng phản ứng như thế dù cả khi nghe bác sĩ cho biết rằng mình còn sống được bao lâu nữa. Tôi chắc chắn đó không phải là vì ông đã bỏ cuộc, mà là vì ông không còn sợ hãi cái chết sau tất cả những gì đã diễn ra nữa.
Người thầy và cậu học việc tận hưởng cuộc hội ngộ khi trò chuyện cùng nhau. Lúc tôi chuẩn bị xong bữa ăn nhẹ thì Saliman đã bắt đầu tươi cười lên đôi chút. Khi phục vụ mọi người món trà hoa xuất xứ từ Torj, chồng tôi điềm tĩnh nhìn bọn tôi trước khi nói:
"Được rồi, như những gì được viết trong lá thư, chúng ta bắt đầu được rồi chứ?"
Chàng trai trẻ có mặt tại đây cùng bọn tôi là một người viết thuê, rõ ràng là đã được cử đến đây để ghi chép lại câu chuyện của chồng tôi.
"Vâng."
"Theo lệnh thầy ạ."
Khi Saliman và tôi đã xác nhận, chồng tôi với tay đến bệ cửa sổ và cầm lấy tập sổ da mà ông đang đọc ban nãy.
Đó là quyển nhật ký chứa đựng những sự kiện thời trẻ của ông. Phần bìa da bị hư hại và những sợi dây bện rệu rã chính là minh chứng cho hàng tá năm tháng mà nó đã tận mắt chứng kiến. Tôi đã thấy ông ấy đọc quyển nhật ký này vô số lần trong hàng thập kỷ sống bên nhau, nhưng hẳn đây sẽ là lần cuối cùng.
"Thứ tôi sắp chia sẻ với mọi người chính là cậu chuyện của một lão già sắp ra đi. Nhưng sẽ mất khá lâu đấy, nên xin mọi người hãy thư giãn và tận hưởng chút đồ ăn nhẹ trong lúc lắng nghe."
Chồng tôi mở quyển sổ ra và nhìn lấy những ký tự lạ lùng được viết bên trong:
Tiếng Nhật―thứ ngôn ngữ của một thế giới khác mà tại thế giới này chỉ ông ấy mới có thể đọc được.
"Tất cả đều bắt đầu vào tháng năm của năm thứ 485... Tại sa mạc gần ngôi làng này. Tôi vẫn nhớ như in ngày hôm ấy."
Chồng tôi bắt đầu kể lại những tháng ngày xưa cũ trong khi cậu quan chức hoàng gia trẻ tuổi ghi chép lại câu chuyện của ông.
Tiểu sử của Clear Kay, ghi chép về vị lữ khách già đến từ một thế giới khác, bắt đầu khi ông vô tình rơi vào thế giới của chúng tôi.
❖❖❖
Vậy thế là hết, hở?
Đó là điều duy nhất nằm trong tâm trí khi tôi tựa lưng vào một tảng đá lớn.
Đã ba ngày kể từ khi tôi thất lạc ở cái sa mạc này. Không đồ ăn, không bản đồ, không có cách thức nào để giao tiếp, đơn độc. Tôi cất bước trên cái vùng đất hoang vu này để tìm kiếm lấy nền văn minh, nhưng quên loài người đi, tôi thậm chí còn không thể tìm được một giọt nước nữa cơ. Dù tôi có đi xa đến đâu thì mọi nơi vẫn đều là cát, cát và cát.
Ánh mặt trời rực lửa thiêu đốt da thịt, bầu không khí khô hanh đánh bật đi chút nước còn sót lại trong cơ thể. Cát dưới chân tàn nhẫn hút cạn đi sự chịu đựng khi tôi cố gắng bước thêm từng bước. Thứ thức ăn duy nhất mà tôi tìm thấy là hai con thằn lằn và một sinh vật trông như được lai giữa chuột nhà và chuột chù. Tôi đã đạt đến giới hạn của mình.
Đôi chân làm việc quá sức nay đã tê liệt, cứ như thể là chúng là hai cây cột cứng đờ. Tôi chỉ có thể tiếp tục tiến bước nhờ vào cái rễ cây héo úa mà tôi dùng làm gậy chống.
Phát hiện lớn gần đây nhất là một tảng đá lớn, nơi tôi dùng để tạm trú nắng cho đến khi đêm xuống. Ấy thế mà khi đêm về, tôi không chỉ không thể đứng dậy, mà còn hoàn toàn kiệt quệ. Rồi cơn kiệt sức lấn tới và ý thức tôi mắt đầu nhòa đi.
Ý nghĩ rằng mình sẽ chết lóe qua trí óc tôi vô số lần trong ba ngày qua, nhưng lần này thì tôi chắc chắn về chuyện đó. Tôi sẽ chết, cô độc cùng biển cát.
Sao mà chuyện này lại xảy ra cơ chứ?
Câu hỏi đó mọc lên kể từ khi tôi thấy mình có mặt ở cái chốn hẻo lánh này. Xui xẻo thay, tôi không có được câu trả lời, hay biết được vì sao mà mình lại đến được đây.
Tôi vừa mới mở một căn nhà hàng tại Tokyo ba hôm trước, đó là điều duy nhất mà tôi biết.
Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, tôi làm hết nghề này tới nghề khác và dùng khoản tiền tiết kiệm để ra nước ngoài và rèn dũa kỹ năng ẩm thực của mình, thực tập ở những nhà hàng nằm trên khắp thế giới.
Tôi trui rèn kỹ năng trong mười năm trời trong khi làm việc ở những quốc gia tại Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á trước khi quyết định trở về Nhật Bản và bắt đầu mở một nhà hàng cho riêng mình. Đó là một giấc mơ mà tôi đã có từ hồi còn trẻ, và giờ đây cuối cùng nó đã trở thành sự thật.
Nhưng cái niềm đam mê đó chỉ là một phần nguyên cớ giải thích cho việc vì sao tôi lại ở cái địa ngục này. Sự phấn khích khiến tôi làm việc quá mức đến khi bất tỉnh vì kiệt sức. Điều cuối cùng mà tôi còn nhớ được là lúc mình bỗng lăn ra trong bếp. Khi tỉnh giấc thì tôi đang có mặt ở giữa cái sa mạc dường như mênh mông đến vô tận này.
Thoạt đầu thì tôi nghĩ đây chỉ là một giấc mơ lạ kỳ mà thôi, nhưng cái nóng bỏng rộp thiêu đốt khuôn mặt và những hồi quặn thắt dạ dày vì đói đã khiến nó trở thành một cơn ác mộng.
Mỗi đêm, tôi vùi mình vào trong cát để tránh bị chết cóng và nhìn lên bầu trời đêm. Tôi đã mong là mình có thể dùng những vì sao để suy luận sơ xem mình đang ở đâu, nhưng tôi lại không thể nhận ra bất kỳ chòm sao nào cả. Ngoài thứ trông giống với mặt trăng ra thì bầu trời này trông khác biệt hoàn toàn với bầu trời mà tôi đã hằng nhìn từ bé đến nay. Càng tìm tòi về bầu trời đêm thì tôi lại càng thắc mắc rằng liệu mình có còn ở Trái Đất hay không nữa.
Xin hãy là một giấc mơ đi. Xin hãy tỉnh giấc đi.
Khi cầu nguyện, mắt tôi mờ đi và cơ thể thì tê liệt. Mọi hy vọng rằng đây chỉ là một giấc mộng đều tan biến đi hết, cùng với cả nỗi sợ cái chết của tôi. Tôi chỉ mong cơn ác mộng này được chấm dứt.
Có ai sẽ tìm được mình ở đây hay không?
Không biết liệu gia đình và bạn bè có nhớ đến tôi hay không, hay thậm chí là họ có nghĩ đến tôi hay không nữa. Tôi cảm thấy buồn cho những người đồng nghiệp đã giúp tôi đạt được ước mơ của mình và những nhân viên mà tôi mới thuê. Nhưng hơn hết thảy, tôi kinh sợ cái ý nghĩ rằng bản thân sẽ không bao giờ tìm được thứ mà mình hằng kiếm tìm trong suốt cả cuộc đời.
Nhưng dù cho mọi suy nghĩ khác có dạt trôi đi, khát vọng duy nhất dẫn dắt tôi đến con đường trở thành đầu bếp vẫn còn đó:
Mình muốn được ăn những món ăn ngon.
Tôi mở miệng để hét lên, nhưng chỉ có mỗi tiếng thều thào phát ra. Thần chết đang tiến những bước cuối cùng về phía tôi―
Và rồi, nó chạm vào lưỡi tôi.
Đậm đà, mọng nước, tuyệt hảo. Không câu từ nào có thể diễn đạt được thứ hương vị vừa vực tôi sống dậy.
Mùi hương nồng nàn, dịu nhẹ và mặn mà truyền từ miệng và mũi sang các dây thần kinh, và máu ồ ạt chạy qua toàn cơ thể tôi. Nó là thứ hương vị làm thức tỉnh cả linh hồn, và chắc chắn là không có thứ gì ngon hơn thế cả.
Khi mở mắt ra, tôi vẫn được chào đón bởi cảnh quang hoang vu như trước kia, nhưng giờ đây có một bé gái đang ở ngay bên cạnh và nhìn xuống tôi. Khi mắt tôi mở ra, mắt con bé trố to..."A, ư...em là..."
"―!"
Khi tôi cố nói với giọng khô khan, con bé đáp lại bằng thứ ngôn ngữ mà tôi chưa từng nghe qua. Có vẻ như con bé cảm thấy nhẹ nhõm khi choàng đôi tay nhỏ bé quanh người tôi, lôi tôi về với thực tại. Bằng thứ phép mầu nào đó, tôi vẫn còn sống.
Bầu trời đêm vây quanh vẫn khắc ghi trong ký ức tôi. Thời khắc đó đánh dấu cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với thế giới này, và quan trọng hơn, với con bé.
Đi cùng con bé là một chàng trai trẻ lớn tuổi hơn. Có thể nói rằng cả hai đều không phải là người Nhật, nhưng tôi chẳng hề biết được họ đến từ đâu. Cả hai có vẻ như đã cưỡi trên lưng loài thú lạ lùng nào đó trông như được lai giữa bò và lạc đà. Với đống hành trang đang được chất lên lưng, chắc chắn nó đảm nhiệm được vai trò của cả hai loài động vật.
Khi uống nước từ cái túi da, chàng trai kia dùng một miếng vải để che chắn cho đầu và cổ tôi khỏi ánh mặt trời. Nó là phiên bản tạm bợ của tấm mạng che nắng mà hai đứa trẻ đang đeo. Với ánh mặt trời bị che chắn, cuối cùng tôi cũng có thể cảm thấy được chút thoải mái lần đầu tiên trong suốt vài ngày qua.
Sau khi phục hồi được đôi chút, cả hai đặt tôi lên lưng loài sinh vật kỳ lạ và mang tôi đến một ngôi làng gần đó.
Một lát sau, bọn tôi đến được nơi có vẻ như là ốc đảo tại sa mạc. Cây cối và động vật trang hoàng cho ngôi làng vì nơi đây được xây nên để phủ lấy ốc đảo. Bản thân ngôi làng khá rộng lớn và những tòa nhà có tuổi đời trông khá cao, nhưng càng nhìn thì mọi thứ lại càng trở lên lạ thường với tôi.
Các tòa nhà được xây nên từ bùn và đất sét, không hề có bất kỳ con đường được lát đá nào cả. Không hề có bất kỳ chiếc xe đạp hay xe hơi nào, mà chỉ có lấy những chiếc xe thồ được kéo bởi các sinh vật trông giống với con thú đã mang tôi đến đây. Tôi đã nghe đến các thị trấn được xây theo lối cổ nhằm thu hút du khách, nhưng ngôi làng này không chỉ đi theo lối kiến trúc cổ đại mà còn hơn cả thế. Người dân, công nghệ, nhà cửa, mọi thứ trông như thuộc về thời kỳ hàng trăm, có khi là hàng nghìn năm về trước. Tôi chưa từng nghe qua bất kỳ thành phố nào mà cư dân có thể sống khi không dùng đến ga và điện trong thời đại ngày nay cả.
"Chúng ta đang ở đây đây?" tôi cố hỏi chàng trai trẻ bằng mọi thứ ngôn ngữ mà mình biết, nhưng vô ích.
Cảm giác nhẹ nhõm từ từ bị cảm giác bối rối nuốt chửng khi tôi nhận ra quan cảnh này khác xa những gì mà mình biết đến nhường nào. Khi bắt đầu bối rối, tôi được mang đến một căn chòi làm từ bùn có vẻ là nhà ở. Tôi quàng vai chàng trai trẻ mà bước vào, và nghe cậu ta nói chuyện với ai đó ở trong. Người đàn ông đó có vẻ là một vị y sĩ, vì ông ấy khám người tôi ngay sau đó.
Sau khi được khám xét kỹ lưỡng, chàng trai trẻ dẫn tôi vào căn phòng khác với một chiếc giường để nghỉ ngơi. Nó cứng, nhưng thoải mái hơn cả trăm lần so với cái giường bằng cát mà tôi đã tạo nên. Sự mệt nhoài kéo đến và tôi chìm vào giấc ngủ sâu.
Cũng đã kha khá lâu, bởi bên ngoài cửa sổ trời đã ngả tối. Bé gái kia giờ đây đang ở cạnh bên giường nhìn lấy tôi, và mang thức ăn đến ngay khi tôi vừa mở mắt.
Dù trông có vẻ là một loại cháo làm từ gạo nào đó, nó lại được ăn kèm với thứ sữa mà tôi chưa từng nếm qua. Có khả năng loại sữa này đến từ con thú mà bọn tôi đã cưỡi vào làng, nhưng tôi không có cách nào để hỏi cả.
Dẫu có có hỏi được đi chăng nữa thì việc thứ sữa ấy đến từ đâu cũng là thứ ít quan trọng nhất trong tâm trí tôi. Tôi uống cạn tất cả như thể đây là thứ ân huệ mà Chúa Trời ban cho.
Liếm sạch đôi đũa, tôi quay sang bé gái ngồi cạnh mình. Con bé là một đứa nhỏ nhắn với thái độ rất dễ thương, hẳn là trong những năm đầu tuổi vị thành niên. Không như những người khác trong làng với làn da sẫm màu và màu tóc trắng, con bé sở hữu mái tóc bạc dài xinh đẹp và làn da màu tro không tì vết. Đôi mắt xanh da trời của con bé tựa như biển cả với mọi sự lộng lẫy.
"À... Ừm―"
Tôi định buông lời cảm ơn, nhưng rồi nhớ ra mình không nói được thứ ngôn ngữ của con bé. Con bé nhận ra tôi do dự trước điều mình muốn nói, và bước lên một bước, chỉ tay vào bản thân mình:
"Aisa."
"Hửm?"
"Aisa."
Khi con bé lặp lại những lời ấy mà vẫn chỉ tay vào bản thân, tôi nhận ra hẳn là nó đang nói ra tên của mình.
"...Kei. Kuria Kei."
Tôi đặt chiếc khay cạnh bên tay và phỏng lại con bé bằng cách chỉ tay vào bản thân và đọc ra tên mình.
"Kay..?"
"Kei."
"Kay!!"
Aisa nắm lấy tay tôi và gọi tên tôi với giọng đầy vui tươi. Đối với kẻ đã sẵn sàng đơn độc mà chết chỉ mới vài giờ trước đó, thì giọng nói hiền lành của con bé nghe thật quá đỗi tươi mát.
Từ hôm đó trở đi, gia đình Aisa đón nhận và chăm sóc để tôi hồi phục lại sức khỏe.
Gia đình gồm có Aisa, bố mẹ và anh trai con bé. Bố con bé, Sazan, là người đã khám cho tôi; và như tôi ngờ, ông là một vị bác sĩ. Ngày nào cũng có nhiều bệnh nhân đến viếng thăm ông để được chữa trị. Mẹ con bé tên là Karajan, có vẻ bà là người chủ quản việc nhà như dọn dẹp, nấu nướng và nhiều công việc lặt vặt khác. Anh con bé, Shizam, là người đã ở cùng Aisa khi con bé tìm thấy tôi ở sa mạc. Cậu ta sống trong khu vực cùng một người phụ nữ, tôi đoán đó chính là vợ hoặc bạn gái cậu ta, và giúp đỡ Sazan trong công việc của ông gần như là mọi ngày.
Sau khi đã phục hồi nhờ ơn Sazan, tôi đã có thể góp sức vào việc nhà và bắt đầu gắn kết với người dân địa phương. Rào cản ngôn ngữ rõ ràng là vấn đề to lớn để vượt qua, nhưng nhờ Aisa, tôi đã có thể học được nhiều hơn sau mỗi ngày. Ngày nào tôi cũng dành thời gian ra để đi dạo quanh làng cùng Aisa. Con bé giới thiệu tôi với bạn bè và hàng xóm, cho tôi giúp đỡ công việc quanh làng, và giúp tôi dần quen thuộc với lối sống của họ. Tôi chưa từng hiểu được bất kỳ cuộc hội thoại nào, nhưng mỗi lần nghe thấy cái tên 'Kay' thì tôi lại thấy khá là thích thú. Mỗi lần đến chợ, bọn tôi dùng một con vật là lùng để thồ hàng. Theo lời Aisa thì gia đình con bé không sở hữu con nào cả, nên họ đã mượn nó từ hàng xóm.
Trong chuyến đi lần hai, nó liếm chiếc lưỡi bốc mùi khắp mặt tôi. Thấy thế, Aisa cười ồ lên trước khi nói điều gì đó:
"Dendel," con bé nói, chỉ tay vào con vật.
Rõ ràng đó là tên của nó. Mãi về sau tôi mới biết dendel là tên của cả giống loài chứ không phải tên thật sự của nó. Dù sao thì tôi cũng đã liên tục lặp đi lặp lại để hằn sâu nó vào tâm trí.
Trông khó chịu, Aisa lắc đầu và đọc cái tên lại lần nữa. Có lẽ tôi đã phát âm nó sai cách. Tôi lặp lại lần trong khi đảm bảo rằng lần này mình sẽ phát âm đứng. Sau vài lần nữa, Aisa gật đầu thỏa mãn.
Dành ngày này tháng nọ hệt như hôm nay, tôi dần dần cải thiện được vốn từ thông qua việc ghi chép lại mọi từ mà mình học được vào một quyển sổ da. Ý tưởng chính là tôi sẽ viết những con chữ vào sách và xem liệu người ta có nhận ra chúng hay không. Xui xẻo thay, không ai nhận ra bảng chữ cái, chữ Hán, chữ Ả Rập hay bất kỳ chữ số nào, nên tôi phải dùng đến cách khác.
Tôi ghi chép làm mọi thứ, từ tên hàng xóm và bất kỳ đồ vật nào, đến tên của những loài hoa, loài thú và bất kỳ ngôi sao nào mà tôi có thể nhận ra. Sau này tôi biết được ngôi làng này mang tên Asilia. Lý do chính khiến cho tôi tò mò khi còn ở Asilia chính là, như bạn có thể mong đợi từ một đầu bếp, chính là nền ẩm thực bản địa. Khu chợ tôi thường lui tới cùng Aisa luôn ngập tràn những nguyên liệu mà tôi chưa từng thấy qua.
Khoai tây có tồn tại, nhưng lại có đủ hình thù, không như khoai tây thông thường; và khoai lang thì là những khối cầu màu đỏ. Tôi cũng bị thu hút bởi một loại quả trông như đào bị vắt kiệt nước và thứ rau củ với lá màu đen nào đó.
Về thịt, ở đây có bò, heo, dendel và đủ loại thịt chim. Đôi lúc họ còn có bán cả thằn lằn sống và những sinh vật trông như chuột mà tôi đã ăn tại sa mạc.
Thăm thú khu chợ trở thành khoảng thời gian mà tôi yêu thích nhất. Tôi có thể cảm thấy sự phấn khích mỗi lần hướng tới chợ, đặc biệt là khu chợ tại nơi mới mẻ này.
Trên đường về nhà, khi tôi quyết định hỏi bố mẹ Aisa liệu họ có thể để tôi nấu ăn cho họ không thì một con đường tẻ ra từ phố chính khiến tôi chú ý.
Ở phía xa xa, một vườn cây ăn trái tỏa ra về cả hai phía, đó là nơi mà hoa quả xuất phát. Tôi dán mắt vào những cái cây cho đến khi phát hiện ra một ngọn đồi cao nhô lên từ sau vườn cây. Một mái vòm lớn được dựng lên trên đỉnh ngọn đồi ấy, trông khác biệt hoàn toàn với mọi căn nhà trong làng. Ngã ngũ trước sự hiếu kỳ, tôi hỏi Aisa liệu rằng bọn tôi có thể lại gần xem nó không.
"Không được...không phải chỗ đó."
"Để coi cũng không được sao?"
"...Không."
Aisa lắc đầu với biểu cảm trông khá tội lỗi.
Tôi không biết con bé cảm thấy tội lỗi về điều gì. Dựa theo phản ứng thì tôi nghĩ đó là một cơ sở tôn giáo hay gì đó đại loại vậy. Có lẽ người ngoài như tôi nên tránh xa những nơi như thế.
"Ừm, giờ thì không cần quan tâm đến nó," tôi nghĩ, và đưa nó ra khỏi tâm trí mình.
Tôi thử nấu ăn lần đầu tiên vào hôm sau, dù điều tôi làm chỉ là đi theo Aisa và Karajan tới trại lửa công cộng cùng với một giỏ rau củ.
Rất ít người trong làng có căn bếp cho riêng mình, hầu hết các gia đình phải ra ngoài để nấu ăn. Nếu cần nước thì bọn tôi phải đi lấy tại cái giếng gần đây; và bọn tôi phải giữ nhiệt độ bằng cách đảm bảo luôn có đủ gỗ được đốt.
Mọi thứ quá ban sơ so với những căn bếp hiện đại mà tôi biết. Tuy vậy, tôi vẫn hứng thú khi nhìn những người phụ nữ nơi đây cầm dao và nấu ăn.
Nhanh chóng, tôi thấy mình cầu xin Aisa và mẹ con bé để xin được nấu nướng bằng cách lặp đi lặp lại từ Sãky, có nghĩa là nấu ăn, cho đến khi họ hiểu.
Vì họ chưa từng thấy tôi nấu nướng, nên Karajan do dự về việc liệu có nên cho phép tôi hay không, mãi đến khi Aisa thuyết phục được bà.
Tôi xào một chút thịt dendel xông khói, rau củ, chuột cát―thứ sinh vật mà tôi đã ăn tại sa mạc. Tôi cắt đầu nó ra, moi ruột rồi chặt nhỏ bằng con dao phay bản dày.
Tôi dùng gia vị, muối và rượu để khử đi cái vị chua và bằm đến khi nó đủ dính rồi nặn thành những viên thịt tròn và ném chúng vào cùng với rau củ.
Dù mất kha khá thời gian để thành hình thành hài, thứ thịt mềm đến bất ngờ và cho ra cái hương vị tuyệt hảo cho món xào, ngon lành hơn bất kỳ loại thịt chuột, sóc hay thỏ nào có thể ăn được. Tôi không nghĩ đến việc dành thời ra để tận hưởng nó hồi còn ở sa mạc vì lúc bấy giờ tôi còn quan ngại đến vi-rút và ký sinh trùng, nên tôi khá ư là ấn tượng khi biết được nó ngon đến nhường này.
Gia đình Aisa bất ngờ bởi tài nấu nướng của tôi và thích nó. Tôi rất vui vì có thể đền đáp lại cho họ. Đây là lần đầu tiên mà tôi cảm thấy mình đóng góp được gì đó cho nơi đây
Kể từ đó, ngoài làm việc tay chân thì tôi cũng chịu trách nhiệm nấu nướng cho nhà Aisa. Ý nghĩ có được một công việc thúc tôi trở nên gần gũi hơn với xung quanh, và nhờ thế, trình độ ngôn ngữ của tôi được cải thiện với tốc độ nhanh hơn.
Tôi có được một đời sống viên mãn kể từ ngày mà tôi bắt đầu nấu ăn. Thậm chí có lúc tôi còn dự định có được công việc thực thụ là làm đầu bếp cho nhà hàng địa phương. Nhưng tôi tạm hoãn kế hoạch đó lại là vì tôi vẫn còn hai mối quan ngại về thức ăn.
Đầu tiên là thứ hương vị tuyệt đỉnh mà tôi đã nếm thấy khi bán sống bán chết. Tôi chắc chắn đã chết nếu không nếm được nó. Song, Aisa và Shizam có vẻ không mang bất kỳ món thức ăn nào bên mình lúc bấy giờ.
"Em cho anh ăn thứ gì đó hồi lúc em cứu anh à? Thứ gì đó rất rất ngon ấy?" tôi hỏi Aisa, nhưng con bé phủ định nó.
Tôi chỉ có một phán đoán duy nhất: thời khắc trăn trối khiến tôi tưởng tượng ra thứ hương vị tương tự với trải nghiệm cận kề cái chết. Tôi quyết định tạm tin là thế vì không tìm được bất kỳ lý do nào khác để giải thích cho thứ hương vị thần thánh đó cả.
Mối quan ngại thứ hai là về phong tục liên quan đến thức ăn tại nơi đây. Vào độ tôi có thể ăn nói khá rành mạch, tin tức về cái chết của một người già lan ra khắp khu. Aisa, cùng các thành viên trong gia đình con bé, đi đến đám tang của người đó khi tôi ở nhà trông nhà. Đám tang diễn ra gần đây, nên tôi thấy được lúc họ đốt lửa.
Tôi nhìn khỏi bốc lên từ trong căn nhà, và cuối cùng nhận ra một điều:
Mình không nhớ là mình đã từng nhìn thấy bất kỳ một ngôi mộ nào trong làng này.
Thú thật thì có khả năng cao là tôi chưa từng đến nghĩa trang, hoặc các ngôi mộ ở đây trông khác với những ngôi mộ tại thế giới của tôi. Tôi cũng nhớ về cái mái vòm trên ngọn đồi nọ và nghĩ rằng đó có thể là nghĩa trang.
Xét cho cùng, khi nhận ra rằng đó không phải là thứ nên hỏi tại nơi công cộng, tôi quyết định hỏi Aisa về nó sau.
"Mọi người chôn cất người đã mất ở đâu thế?"
"...Chôn cất người đã mất sao? Bọn em không chôn ai hết."
Tôi hỏi khi con bé trở về; tôi lờ mờ đoán được câu trả lời mà mình sẽ nhận được.
"Đương nhiên là bọn em ăn thịt họ rồi."
Đó là lúc mà tôi biết về bữa tiệc tang được biết đến với cái tên ganzara, một phong tục mà xác của người đã khuất sẽ được sử dụng như thịt của mọi loài động vật khác: bị chặt xẻ, nấu lên và được phục vụ cho mọi họ hàng tại bữa tiệc tang.
"Được rồi, vậy tại sao mà mọi người lại ăn họ?"
Cảm lấy sự ớn lạnh, tôi tiếp tục, đưa ra câu hỏi tiếp theo. Lần này, Aisa trả lời ngay lập tức:
"Vì từ nay trở đi, một phần của ông sẽ ở trong em. Không phải anh sẽ thấy an tâm nếu biết một người mà mình thân quen trở thành một phần trong anh sao?" Aisa giải thích khi xoa bụng. Có vẻ như con bé cũng ăn người đó tại đám tang.
Tục ăn thịt người. Hành vi được coi là cấm kỵ tại hầu hết các quốc gia trên thế giới này lại được thực hiện bởi con bé nhỏ nhắn với nụ cười ấm áp và đôi mắt tràn đầy cảm xúc này.
Tôi hoàn toàn kinh hãi khi phát hiện ra điều này, nhưng rồi nhớ ra ngày mà bố mẹ tôi bắt tôi đặt tay lên mặt của thi hài ông tôi, và khiến cho tôi hơi có phần đồng cảm với phong tục này. Tôi gần như có thể hiểu được nó từ góc nhìn tâm linh, nhưng tôi không thể nào chịu được cái ý tưởng nấu và ăn xác người.
"Anh muốn ăn một chút không, anh Kay?"
"Ông em đã được tất cả mọi người ăn rồi mà."
Không đời nào tôi lại có thể ăn một cái xác đã được chế biến cả.
Cảm thấy sự chối từ mạnh mẽ trong câu trả lời của tôi, Aisa đưa ra vẻ mắt có đôi chút u sầu. Vì lý do gì đó mà tôi lại cảm thấy có chút sự ám chỉ trong câu hỏi của con bé, mặc dù tôi không biết được đó là gì mãi đến về sau.
Nhưng trước khi chuyện đó xảy ra, có một sự kiện khác trở thành ngã rẽ trong cuộc đời tôi. Nó xuất phát bởi những người đưa tin của quốc gia này, họ đến từ cung điện hoàng gia ở xa về phía đông.
Một hôm nọ, một nhóm người lạ lùng đến gặp tôi.
Họ đều mặc những bộ đồng phục đầy bệ vệ với chiếc mũ mạng mà tôi chưa từng thấy ở bất kỳ nơi đâu tại Asilia. Họ hỏi rằng tôi có phải là Clear Kay hay không và tuyên bố chức vụ người đưa tin của hoàng thượng khi tôi đã xác nhận.
"Hoàng thượng được thông báo về một người đàn ông bí ẩn đã xuất hiện tại Asilia và ra lệnh cho anh diện kiến bệ hạ. Bọn ta sẽ đưa anh đến triều đình."
Lần đầu tiên tôi cảm thấy lo lắng từ khi có mặt tại đây, nhưng đồng thời, tôi cũng nghĩ đây chính là một cơ hội. Tiếp xúc với trái tim của quốc gia chính là con đường nhanh nhất để có được những câu trả lời về nơi này. Dù gì thì tôi cũng không biết chính xác là tôi đang ở đâu hay bằng cách nào mà mình lại đến được đây.
Tôi bị sự bất an chiếm hữu và không thể đưa ra lời chấp thuận mãi đến khi Aisa xen vào:
"Không sao đâu, anh Kay. Em sẽ đi với anh."
"Ưm, em không thể cứ thế mà đi với anh được..."
Không đời nào họ lại chấp nhận sự đồng hành của một thường dân tới triều đình được, phải chứ?
"Vốn dĩ Aisa điện hạ sống tại triều đình," một trong những người đưa tin giải thích như thể thấy được nỗi băn khoăn trong vẻ mặt tôi.
"Con bé sống trong triều đình sao?"
"Phải. Aisa điện hạ chỉ đến Asilia trong ít lâu thôi. Mục đích ban đầu của bọn ta là đưa điện hạ về và mang anh theo nếu anh có mặt ở đây."
"Ừa. Vậy chúng ta sẽ đi cùng nhau đó, anh Kay."