Eragon đăm chiêu khi bước ra khỏi đường hầm trong ánh nắng chiều sớm trải lên Tảng Đá Kuthian.
Nó ngờ ngợ hình như đã quên chuyện gì đó rất quan trọng. Nó cố gắng lục lọi trí nhớ nhưng chẳng nghĩ ra được gì, chỉ có cảm giác trống rỗng làm nó thấy thực khó chịu. Có lẽ có liên quan tới …, không, nó vẫn không nhớ được gì hết. Shaphira, có phải em … nó buột miệng, nhưng rồi ngậm lại ngay lập tức.
Gì thế?
Không có gì. Anh chợt nghĩ … thôi bỏ đi; không thành vấn đề.
Cánh cửa vào đường hầm phía sau họ đóng lại vang lên tiếng ầm sâu thăm thẳm, những nét chạm trổ trên đó mờ dần, rồi mảnh chóp gồ ghề phủ đầy rêu trở lại thành cục đá như cũ.
Đi nào, giọng Umaroth vang lên, cùng rời khỏi đây thôi. Đã muộn rồi, và Urû’baen còn cách đây nhiều dặm nữa.
Eragon liếc nhìn lại khoảng trống, vẫn cảm thấy nó còn bỏ sót cái gì đó; nhưng nó vẫn gật đầu, leo lên yên của Saphira.
Khi nó quấn đai vòng qua chân, chợt có tiếng chim hót kì lạ vang lên từ khoảng rừng rậm phía bên phải. Nó nhìn theo, nhưng không nhìn thấy con vật đó. Nó nhăn mặt. Thực sự thì nó rất mừng khi đến Vroengard, nhưng cũng mừng không kém khi được rời khỏi đây. Hòn đảo thực là một nơi không hiếu khách cho lắm.
Đi chưa hở anh? Saphira hỏi.
Uh, lượn thôi.Nó thở phào khẽ nói.
Chỉ cần lướt cánh một cái, Saphira đã phi thẳng lên không trung, lướt qua rừng táo khoảng đối diện với khu đất trống. Cô nàng phóng vụt qua thung lũng, trèo một vòng qua khu tàn tích Doru Araeba. Khi lên đủ cao để vượt qua rặng rúi, cô nàng lượn trái bay về lục địa, nhằm hướng Urû’baen, bỏ lại phía sau đống đổ nát của thành trì vinh quang của Kỵ sỹ Rồng.
Thành phố u ám
Mặt trời vẫn đứng bóng khi quân Varden tới sát Urû’baen.
Roran nghe thấy tiếng hò reo của những chiến binh đứng đầu đội ngũ khi họ leo lên đỉnh đồi. Anh tò mò ngóng qua gót chân một người lùn đri tước, rồi khi lên đến đỉnh đồi, anh khựng lại để ngắm nhìn, cũng như những người lính đã đi trước.
Vùng bình nguyên trải dài thoai thoải xuống vài dặm, được san phẳng thành một khu đất rộng cho những cánh đồng, cối xay gió và những toàn nhà bằng đá khối, gợi anh nhớ đến một nơi gần Aroughs. Khoảng năm dặm phía xa ra bức tường thành Urû’baen đứng sừng sững.
Không giống như Dras-Leona, tường thành của Urû’baen đủ dài để ôm gọn toàn bộ thành phố phía trong. Nó cũng cao hơn nhiều, thậm chí từ khoảng cách này Roran có thể nói tường thành ở Dras-Leona lẫn Aroughs chỉ như những chú lùn khi so với nó. Anh đoán độ cao của bức tường tầm khoảng ba trăm thước. Anh còn nhìn thấy những máy phóng tên (ballistate) và máy bắn đá (catapult) được đặt đều đặn trên những lỗ châu mai rộng hoác.
Khung cảnh này làm anh thực lo lắng. Mấy cái may này quả là rất khó hạ - chưa kể là chúng còn được bảo vệ bởi phép thuật – và từ kinh nghiệm của mình anh biết chúng nguy hiểm nhường nào.
Phía sau bức tường là đám hổ lốn những công sự do con người lẫn tiên nhân xây nên. Cao sáu bộ và trông rất thanh nhã, những tòa tháp nổi bật nhất của tiên nhân được làm bởi những phiến đá xanh lục, nằm rải rác thành một hình vòng cung bao lấy khu – anh đoán – lâu đời nhất của thành phố. Hai cái tháp bị mất ngói, và có vẻ anh còn thấy hai cái nữa bị đổ, bị chôn vùi bởi hàng dãy nhà phía dưới.
Tuy nhiên, thứ gây chú ý cho anh nhất không phải là bức tường hay mấy toà tháp, mà khu vực đó nằm dưới bóng của một phiến đá khổng lồ, rộng ít nhất nửa dặm và dày ít nhất năm trăm thước. Phần đá nhô ra trông như bên sườn đồi trải dài về phía bắc đến vài dặm. Trên bờ đá lởm chởm là một bức tường khác giống bức bao quanh thành phố, cùng với những tháp canh vững chãi. (sao Paolini không vẽ đại ra người ta còn tưởng tượng cho dễ, aizzz)
Phía sau khoảng hõm vào bên dưới tảng đá là một tòa thành vĩ đại, tô điểm bởi hàng loạt tháp canh với tường chắn. Tòa thành vươn cao lên khỏi toàn bộ thành phố, gần như chạm đến mặt dưới của phiến đá. Điều đáng hãi nhất của cổng vào đặt trước tòa thành: một hang động bự chảng, đủ để Saphira và Thorn bước cạnh nhau trong nó.
Ruột Roran quặn thắt. Nếu những gì trước mắt đúng như anh nghĩ, Shruikan đủ lớn để quét sạch toàn bộ đoàn quân này. Tốt hơn là Eragon và Saphira nhanh nhanh lên, anh nghĩ. Cả đoàn quân tiên nhân nữa. Từ những gì anh đã thấy, các tiên nhân có thể cầm cự được với con hắc long của nhà vua, những cũng có khó mà giết được nó.
Cứ như vậy, Roran đứng lặng nhìn trên đỉnh đồi. Rồi anh giật cương con Hỏa Tuyết. Đằng sau anh, con bạch mã khụt khịt đi theo Roran tiếp tục hành trình mệt rã rời, thoải bước xuống sườn đồi gió thổi lồng lộng.
Anh có thể cưỡi nó – đáng lẽ như thế, với vị trí tiểu đoàn trường – những sau hành trình tới Aroughs rồi trở lại, anh trở nên ngán ngẩm ngồi trên lưng ngựa.
Vừa đi, anh vừa nghiền ngẫm cách tốt nhất để tấn công thành phố. Phiến đá bao gọn Urû’baen ngăn cản công thành từ bên sườn cũng như phía sau, cũng khiến việc tấn công từ trên xuống phiền phức hơn nhiều, đây chắc là lý do các tiên nhân chọn nó làm nơi định cư đầu tiên.
Nếu có thể phá tan phần thoải ra, ta sẽ chiếm được tòa thành và hầu hết thành phố, anh nhẩm tính, nhưng cũng nhận ra rằng chuyện đó thật khó xảy ra, vì vách đá quá dày. Dù sao,ta vẫn có thể chiếm bờ tường phía đỉnh đồi. Từ đó ta có thể thả đá và đổ dầu sôi xuống dưới. Chiến đấu ở trên đồi, và mấy bức tường… Có khi tiên nhân làm được. Hoặc Kull. Họ chắc khoái lắm.
Dòng sông Ramr chảy phía Bắc cách Urû’baen vài dặm, quá xa nên chẳng giúp được gì. Saphira có thể đào một con rạch để chuyển hướng nó, nhưng cô rồng cũng cần hàng tuần lễ để hoàn thành, mà Varden thì không có đủ ngần ấy lương thực. Quân lương chỉ còn đủ trong vài ngày. Sau đó chỉ còn đường chết đói hoặc tan rã.
Lựa chọn duy nhất bây giờ là tấn công phủ đầu quân đội Đế chế. Roran không tin Galbatorix sẽ tấn công. Từ trước tới giờ lão có vẻ thoải mái để quân Varden tới gần mình. Sao lão phải mạo hiểm làm chi? Lão càng chờ thì quân ta càng yếu.
Điều đó có nghĩa là cuộc tấn công trực diện – bằng cách xung phong ào ạt điên rồ tới bức tường quá dày và quá cao để có thể trèo qua hay phá vỡ, chưa kể cung thủ và máy bắn đá nã liên tục. Chỉ tưởng tượng thôi cũng khiến lông mày anh nhăn tít lại. Quân ta sẽ chết ý như súc vật vậy. Anh chửi thề. Chúng ta tự tìm chết, còn Galbatorix thì cười ngặt nghẽo trên ngai vàng của lão … Nếu quân ta có thể tới gần bức tường, quân địch sẽ không thể bắn hoặc nã đá được nữa, nhưng vậy lại dễ làm mồi cho dầu nóng với đá tảng rơi vào đầu.
Kể cả nếu quân Varden có phá được tưởng thành đi chăng nữa, họ vẫn phải đối mặt với cả đoàn quân của Galbatorix. Quan trọng hơn nữa, ai mà biết được tính cách và phẩm chất của những binh sĩ đó. Liệu họ có liều mạng chiến đấu đến cùng không? Họ có biết sợ không? Họ có tháo chạy khi bị quân ta ép tới không? Loại thề nguyền và thần chú nào trói buộc họ đây?
Tình báo của Varden cho biết Galbatorix đã phong một kẻ tên là Ngài Barst làm chỉ huy quân đội trong thànhUrû’baen. Roran chưa bao giờ nghe tới tên Barst trước đây, nhưng mẩu tin có vẻ làm Jörmundur phát nản, rồi lính trong tiểu đoàn của Roran cứ kể mấy câu chuyện về sự tàn độc của Barst. Hình như trước đây Barst từng là chủ của một điền trang rất lớn ở Gil’ead, rồi phải bỏ đi sau khi tiên nhân đến xâm chiếm. Các nô lệ của hắn sống trong sợ hãi thường trực, vì Barst có xu hướng giải quyết tranh cãi và trừng phải tội nhận bằng cách tàn bạo nhất có thể, và thường là đơn giải xử tử những kẻ hắn tin là có tội. Chỉ thế thôi thì có vẻ không đáng chú ý lắm; cả tá những chủ nô lệ khắp Đế chế mang tiếng hung ác. Tuy nhiên, Barst không chỉ tàn độc mà còn rất mạnh – mạnh khủng khiếp – và xảo trá vô cùng. Trong tất cả những chuyện về Barst mà Roran từng nghe, trí thông minh của hắn là rõ rồi. Barst có thể là một kẻ khốn nạn, nhưng cũng rất tài trí, và Roran hiểu rõ rằng đánh giá thấp hắn sẽ là sai lầm chết người. Galbatorix sẽ không đời nào chọn một kẻ yếu đuối, hoặc ngốc nghếch chỉ huy lính của hắn.
Và còn đó Thorn với Murtagh. Galbatorix có vẻ không thích ra khỏi thành trì của lão, nhưng con rồng đỏ và Kỵ Sỹ của nó thì chắc chắn sẽ bảo vệ tòa thành. Eragon và Saphira phải dụ chúng ra xa. Nếu không quân ta sẽ chẳng bao giờ vượt qua được tường thành. Roran cau mày. Vấn đề là ở chỗ đó. Murtagh trước đây còn mạnh hơn Eragon bây giờ. Eragon vẫn cần các tiên nhân trợ giúp để tiêu diệt hắn.
Roran lại cảm thấy cơn giận dữ và oán hận dâng lên trong lòng. Anh ghét việc phải chịu quyền sinh quyền sát của những kẻ sử dụng pháp thuật. Ít ra khi cần đến sức mạnh và khôn khéo, người ta có thể thừa cái này thiếu cái kia, nhưng chẳng có cách nào bù đắp được một người không có phải thuật cả.
Quá chán nản, anh vốc một viên sỏi lên, thầm thì “Stenr rïsa” như Eragon dạy. Viên đá vẫn trơ ra.
Viên đá mãi trơ ra như vậy.
Anh khịt mũi, ném nó qua vệ đường.
Vợ con anh đều ở Varden, mà anh thì chẳng thể làm được gì để giết Murtagh hay Galbatorix. Anh siết chặt bàn tay, tưởng tượng đã nghiền nát cái gì đó. Hầu hết là xương cốt kẻ địch.
Có khi ta nên bỏ đi. Lần đầu tiên ý nghĩ ấy xuất hiện trong đầu Roran. Anh biết có những miền đất nằm ngoài tầm tay của Galbatorix mãi về phía đông – những đồng bằng màu mỡ chưa có dân du mục khai phá. Nếu những dân làng khác đi với anh và Katrina, họ có thể bắt đầu một cuộc sống mới tự do ngoài Đế chế và Galbatorix. Tuy nhiên ý nghĩ này khiến anh phát bệnh. Anh sẽ bỏ rơi Eragon, lính của anh, vùng đất mà anh gọi là nhà ư. Không. Mình sẽ không để con của chúng ta sinh ra trong thế giới mà Galbatorix vẫn thống trị được. Sống mà sợ hãi thế thì thà chết còn hơn.
Dĩ nhiên, nghĩ ngợi thế chẳng giải quyết được cách chiếm Urû’baen. Trước đây, luôn có những điểm yếu mà anh có thể khai thác được. Ở Carvahall, bọn Ra’zac đã không hiểu dân làng có thể chiến đấu quyết liệt thế nào. Khi anh vật nhau với Urgal Yarbog, đó chính là sừng của đối thủ. Ở Aroughs, đó là con kênh thượng nguồn. Nhưng giờ đây với Urû’baen, anh không nhìn thấy điểm yếu nào, chẳng có gì giúp anh biến lợi thế của kẻ địch thành của mình cả.
Nếu ta có cung ứng, ta có thể bao vây và đợi chúng chết đói. Thế là tốt nhất. Làm khác thì thật là điên rồ. Tuy nhiên anh biết chiến tranh thì bao giờ cũng đầy rẫy những chuyện điên rồ như vậy.
Cách duy nhất chỉ có phép thuật, cuối cùng anh kết luận. Phép thuật và Saphira. Nếu chúng ta có thể tiêu diệt Murtagh, cô rồng hoặc các tiên nhân có thể giúp quân ta vượt qua bức tường.
Anh cau có, trong miệng thấy đắng ngắt, rồi sải bước nhanh hơn. Càng tới trại nhanh càng tốt. Bàn chân anh thấy nhức ngối vô cùng, và nếu anh phải chết trong cuộc xung phong vô nghĩa, thì ít nhất anh cũng muốn một bữa ăn nóng hổi và giấc ngủ ngon lành trước đã.
Quân Varden lập lều trại cách Urû’baen một dặm, men theo một nhánh nhỏ của sông Ramr. Loài người, người lùn, và Urgal bắt đầu lập chiến lũy, kéo dài đến tận đêm và tiếp tục lúc bình minh. Thực ra, cho đến khi nào vẫn còn ở đó, họ vẫn phải tiếp tục gia cố phòng ngự. Các chiến binh ghét cay ghét đắng lao động, nhưng việc đó khiến họ bận rộn, và có thể cứu mạng họ nữa.
Ai cũng nghĩ mệnh lệnh đến từ Eragon-giả. Roran biết Jörmundur mới là người ra lệnh. Anh dần dà thấy kính trọng người chiến binh già từ khi Nasuada bị bắt cóc và Eragon rời đi. Jörmundur đã chiến đấu chống lại Đế chế gần như suốt đời, ông hiểu sâu sắc cả chiến thuật lẫn hậu cần. Ông và Roran khá hợp nhau; họ đều chiến đấu bằng gươm giáo chứ không phải bằng phép thuật.
Rồi còn King Orrin nữa, người mà – sau vài đề phòng lúc đầu đã qua – Roran vẫn cảm thấy nhập nhằng. Orrin chưa bao giờ hết làm anh bực mình; và nếu ai đó khiếp bọn họ bị giết, hẳn đó là ông ta. Roran biết xúc phạm một vị vua chẳng hay ho gì, nhưng lão ngốc đó muốn cho một người đưa tin tới cổng thành Urû’baen để có một cuộc thách đấu công khai, như cách họ thắng được Dras-Leona và Belatona.
“Ông có muốn chọc tức Galbatorix hả?” Roran gầm lên. “Nếu chúng ta làm thế, lão ta có thể phản ứng đấy!”
“Phải, dĩ nhiên”, Vua Orrin cả giọng, ưỡn thẳng người. “Sẽ rất phù hợp nếu chúng ta phát ngôn ý định rõ ràng và cho lão cơ hội đàm phán hòa bình.”
Roran trân trối, rồi khinh bỉ quay qua phía Jörmundur, “Ngài có thể làm ông ấy biết phải trái không?”
Họ tập trung trong lều của Orrin, theo triệu tập của nhà vua.
“Thưa Đức Vua”, Jörmundur nói, “Roran nói phải. Tốt nhất là nên đợi chưa vội liên lạc với Đế chế.”
“Nhưng họ thấy ta mà,” Orrin phản đối. “Chúng ta dựng trại ngay ngoài tường thành của họ. Thật là … thô lỗ nếu không gửi sứ giả bày tỏ kiến nghị của chúng ta. Hoàng gia đòi hỏi phải có phép lịch sự tối thiểu, thậm chỉ cả trong chiến tranh.”
Ý nghĩ thôi thúc đập cho nhà vua một cái xẹt qua đầu Roran. “Ông vẫn còn ngớ ngẩn tới mức cho rằng Galbatorix sẽ xem ông như một kẻ ngang hàng à? Hmm! Với lão chúng ta chỉ là kiến cỏ thôi. Lão chả quan tâm đến phép lịch sự của ông đâu. Ông quên mất Galbatorix từng là thường dân trước khi lão lật đổ các Kỵ Sỹ rồi à. lão không hành xử như ông đâu. Không có ai như lão trên đời này hết, mà ông còn nghĩ có thể đoán trước được lão như. Ông muốn xoa dịu lão ư? Hmm!”
Khuôn mặt của Orrin đỏ lên, ông quăng cốc rượu trong tay xuống sàn. “Anh đi quá xa rồi đấy, Cây Búa Dũng Mành à. Không ai có quyền sỉ nhục tôi như thế.”
“Tôi có quyền làm bất cứ thứ gì tôi muốn,” Roran gầm lên. “Tôi không phải là thần dân của ông. Tôi không phải vâng lời ông. Tôi là người tự do, và tôi sẽ sỉ nhục bất kì ai tôi muốn, bất kì lúc nào tôi muốn, bằng cách nào tôi muốn – kể cả ông. Gửi người đưa tin đi là cực kì sai lầm, và tôi …”
Một tiếng rít vang lên khi vua Orrin rút gươm khỏi vỏ. Ông không làm Roran hoàn toàn bất ngờ được, anh luôn cầm cây búa của mình, và ngay khi nghe thấy tiếng động, anh lập tức lôi vũ khí từ thắt lưng ran gay lập tức.
Thanh gươm của nhà vua trở nên bàng bạc trong ánh sáng tù mù của căn lều. Roran thấy Orrin sẽ đâm tới , anh tránh đi. Rồi anh đập mạnh vào bề mặt lưỡi gươm, khiến nó rung lên, văng khỏi tay Orrin.
Thanh gươm nạm ngọc rơi xuống thảm, vẫn còn rung rung.
“Đức Ngài,” một lính cách hô lên. “Ngài có ổn không?”
“Tôi vừa đánh rơi khiên,” Jörmundur đáp. “Không có gì phải lo cả.”
“Vâng, thưa ngài.”
Roran nhìn đức vua trân tối; trên mặt Orrin là vẻ hoang dã của một con thú bị săn. Không rời mắt khỏi ông, Roran đeo búa vào thắt lưng. “Liên lạc với Galbatorix là ngu xuẩn và nguy hiểm. Nếu ông cố thử, tôi sẽ giết bất kì ai ông gửi đi trước khi hắn kịp tới thành phố.”
“Mày không dám đâu!” Orrin hổn hển.
“Tôi có thể, và sẽ làm. Tôi sẽ không để ông gây nguy hiểm cho tất cả chúng ta chỉ để thoải mãn niềm … kiêu hãnh hoàng gia của ông. Nếu Galbatorix muốn nói chuyện, hắn sẽ biết phải tìm chúng ta ở đâu. Nếu không, cứ mặc hắn.
Roran phóng ra khỏi căn lều. Bên ngoài, anh chống tay vào hông nhìn lên trời mây u ám trong khi chờ mình bình tĩnh lại. Orrin hệt như một con la non: cố chấp, tự tin quá đáng, và sẵn sàng chọc xà beng vào lỗ tai nếu người ta cho ông cơ hội.
Và ông ta uống nhiềukinh khủng nữa, Roran thầm nhủ.
Anh cứ tản bộ trước căn lều cho đến khi Jörmundur bước tới. Trước khi ông kịp nói gì, anh trầm giọng, “Tôi xin lỗi.”
“Cũng như cậu đáng phải thế.” Jörmundur quẹt tay lên trán, rồi rút từ trong túi một chiếc tẩu đất sét, dúi vào một ít lá, nhồi bằng đầu ngón cái. “Nãy giờ tôi ở đó chỉ để thuyết phục ổng không gửi đặc sứ cho tỏ ra bất chấp ý kiến của cậu đấy.” Ông dừng lại trong giây lát. “Cậu có thực sẽ giết người của Orrin không đấy?”
“Tôi không dọa suông bao giờ,” Roran nói.
“Tôi cũng không nghĩ thế… Rồi, hy vọng là không đến nước đấy.” Jörmundur tản bộ dọc theo những chiếc lều, Roran đi theo. Các binh sĩ tránh đường cho họ kèm theo những cái cúi đầu tôn kính. Nhướn tẩu thuốc lên, Jörmundur khề khà, “Tôi thừa nhận mình cũng luôn muốn đáp trả Orrin thẳng thừng như thế hơn một lần.” Môi của ông dang ra thành một nụ cười nhạt. “Không may sao, lần nào tôi cũng nghĩ rồi mới làm.”
“Ổng vẫn thường … cứng đầu như vậy từ trước tới giờ à?”
“Hmm? Không đâu. Lúc còn ở Surda, ổng biết điều hơn nhiều.”
“Có chuyện gì vậy?”
“Ổng sợ, tội nghĩ vậy. Sợ hãi làm người ta xử sự kì quặc lắm.”
“Phải đấy.”
“Có vẻ hơi xúc phạm cậu một tí, nhưng mà cậu cũng ngu quá đi cơ.”
“Tôi biết. Tôi cứ nóng lên là làm tới thôi.”
“Và cậu kết oán với một vị vua.”
“Ý ông là một vị vua khác.”
Jörmundur phì cười nhẹ. “Ờ phải, tôi cho là cậu có kẻ thù cá nhân là Galbatorix rồi, ai khác thì cũng vô hại cả. Dù sao đi nữa …” Ông dừng lại trước đống lửa, rút ra từ đó một cành cây mỏng cháy đỏ. Chấm đầu cành cây vào lòng tẩu thuốc, ông rít vài hơi, châm lửa, rồi quẳng cành cây lại vào đám lửa. “Dù sao đi nữa, tôi sẽ không bỏ qua cơn giận của Orrin đâu. Ông ta sẵn sàng giết cậu trước đây. Nếu ổng oán ai đó, tôi nghĩ là ổng sẽ trả thù bằng được. Tôi sẽ sắp lính canh ở lều của cậu trong vài ngày tới. Dù sao, sau đó …” Jörmundur so vai.
“Sau đó, chúng ta sẽ đều phải chết hoặc bị tù đày.”
Họ cùng bước đi trong im lặng thêm vài phút, còn Jörmundur cứ rít tẩu thuốc của ông suốt. Khi họ sắp tách nhau, Roran hỏi, “Khi ông thấy Orrin …”
“Gì vậy?”
“Có lẽ ông cho thể cho ông ấy biết nếu động chạm đến Katrina, tôi sẽ đánh ông ta lòi ruột trước toàn doanh trại.”
Jörmundur cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi ngẩng đầu gật gật. “Tôi nghĩ tôi có thể tìm ra cách làm chuyện đó, Cây Búa Dũng Mãnh.”
“Cảm ơn.”
“Sẵn sàng thôi. Lúc nào cũng thế, giúp cậu luôn là niềm vui độc đáo vô cùng.”
“…”
Roran tìm Katrina, thuyết phục cô mang bữa tối đến rìa phía Bắc doanh trại, nơi anh có thể cảnh giới đặc sứ của Orrin. Họ ăn bữa đặt trên tấm vải sạch trải ra trên nền đá cuội, rồi ngồi cùng nhau khi bóng chiều tà vươn ra, những ngôi sao nối đuôi nhau nhấp nháy trên bầu trời màu tím phía trên phiến đá nhô ra.
“Em rất mừng được ở đây,” cô thủ thỉ, tựa đầu vào vai anh.
“Thật không em?”
“Bầu trời thực đẹp, và em có anh ở đây với em.” Cô xiết chặt cánh tay anh.
Anh kéo cô lại gần, nhưng bóng đen trong lòng anh vẫn còn đó. Anh không thể nào quên hiểm nguy đang cận kề cô và đứa con của họ. Ý nghĩ kẻ thù lớn nhất của họ chỉ cách vài dặm cứ khiến lòng anh như lửa đốt; anh không ước gì hơn là có thể bật dậy, phi thẳng đến Urû’baen giết Galbatorix.
Nhưng chuyện đó là vô phương, nên anh mỉm cười, hoặc cười phá lên, cố giấu nỗi sợ hại, thậm chỉ khi anh biết cô cũng đang cố giấu nỗi sợ hại như vậy.
Khỉ thật, Eragon, anh nghĩ, cậu phải nhanh nhanh lên, hoặc tôi thề sẽ ám cậu sau khi chết đấy.