Đường Xưa Mây Trắng

chương 83: ra nhìn tia nắng sớm

Truyện Chữ Hay
Tùy Chỉnh
Truyện Chữ Hay

Tin thái tử Tất Đạt Đa đi tu đắc đạo đã trở về được truyền đi rất mau trong thành Ca Tỳ La Vệ.

Tin này được xác định bằng sự có mặt của giáo đoàn khất sĩ mỗi buổi sáng ở thành phố và các vùng lân cận thủ đô.

Nhiều người đã được trông thấy cảnh tượng những đoàn khất sĩ lặng lẽ và trang nghiêm đi khất thực trên các nẻo đường.

Nhiều nhà đã học được cách thức cúng dường thực phẩm cho các vị khất sĩ theo nghi lễ.

Nhiều gia đình đã được nghe các vị khất sĩ thuyết pháp.

Quốc vương Tịnh Phạn cũng đã ra lệnh dân chúng treo cờ kết hoa vào ngày rước Bụt và giáo đoàn đến hoàng cung thọ trai.

Vua cũng đã ra lệnh dựng lên những am thất nhỏ rải rác trong công viên Ni Câu Đà để che nắng che mưa cho Bụt và các vị đệ tử lớn tuổi của người.

Ngoài những người có phận sự đến xây dựng am thất, đã có một số người tìm tới tận công viên Ni Câu Đà để thăm viếng và học hỏi với Bụt và các vị khất sĩ.

Nhiều người ở thủ đô quả quyết đã được gặp thái tử Tất Đạt Đa trong hình thức tu sĩ trang nghiêm mang bình bát đi khất thực.

Trong suốt cả tuần lễ, dân Ca Tỳ La Vệ chỉ nói có một câu chuyện này khi gặp gỡ nhau.Hai vị phu nhân Kiều Đàm Di và Da Du Đà La cũng rất muốn lên vườn Ni Câu Đà để thăm Bụt nhưng họ không có thì giờ.

Cả hai người đều phải lo điều động công việc tổ chức lễ trai tăng.

Vua đã cho mời hàng ngàn tân khách.

Không những nhân vật trong giới chính trị và văn hóa trong và ngoài hoàng gia được mời mà tất cả các giới lãnh đạo tôn giáo và trí thức cũng đã được mời.

Theo lời Bụt dặn, tất cả các thực phẩm cúng dường và thết đãi ngày hôm ấy sẽ đều là những món chay tịnh.Hoàng tử Nan Đà đã lên thăm Bụt được hai lần vào hai buổi chiều.

Chàng đã được ngồi với Bụt khá lâu và được Bụt giảng dạy cho những điều căn bản của đạo lý tỉnh thức.

Nan Đà rất thương kính Bụt và rất mến nếp sống tịnh lạc của các vị khất sĩ.

Chàng có hỏi thăm về đời sống hàng ngày của các vị khất sĩ.

Chàng lại hỏi Bụt xem Người thấy chàng có đủ khả năng sống đời sống xuất gia không.

Bụt chỉ mỉm cười không trả lời.

Nan Đà là một thanh niên có nhiều tình cảm nhưng chưa được vững mạnh lắm về mặt ý chí.

Khi ngồi với Bụt thì có ý muốn đi xuất gia, khi về đến cung điện và nghĩ tới mỹ nhân Kalyani, vị hôn thê của mình thì chàng lại thấy chàng chưa đi xuất gia được.

Chàng tự hỏi không biết anh mình nghĩ gì về mình.Ngày trai tăng đã đến.

Cả thủ đô treo cờ kết hoa để đón Bụt và tăng đoàn.

Hoàng thành cũng được treo cờ kết hoa bốn phía.

Cả thủ đô tưng bừng chuẩn bị đón rước người hùng của cả nước.

Nhiều nơi trong thành phố, thiên hạ mở hội vũ nhạc.

Trên con đường mà Bụt và tăng đoàn sẽ đi qua, quần chúng tập họp rất đông đảo.

Ai cũng muốn thấy tận mặt Bụt.

Trong hoàng cung, tân khách của quốc vương đã tề tựu đầy đủ.

Phu nhân Kiều Đàm Di và Da Du Đà La đích thân điều khiển công cuộc tiếp đãi.

Cù Di đã nghe lời hoàng hậu trang điểm và phục sức thật đúng mức trong ngày hội lớn này.Trong lúc ấy Bụt cùng đoàn khất sĩ đang trầm lặng và nghiêm chỉnh đi vào thành.

Hai bên đường dân chúng đứng chen từng hàng đông đảo.

Nhiều người chắp tay cúi đầu khi Bụt đi qua.

Những em bé được công kênh lên để có thể thấy được Bụt.

Có cả những tiếng hò reo mừng Bụt trở về.

Trong không khí rộn rã tưng bừng ấy, đoàn khất sĩ vẫn lặng lẽ và chậm rãi đi tới.

Các vị khất sĩ để hết tâm ý vào bước chân và hơi thở của họ.Vua Tịnh Phạn ra đón Bụt tận ngoài cổng hoàng cung, cũng như vua Tần Bà Xa La ở nước Ma Kiệt Đà vậy, Bụt và các vị khất sĩ được hướng dẫn vào chỗ ngồi đã bày sẵn ở giữa sân điện.

Thấy vua kính cẩn chắp tay làm lễ Bụt, tất cả các vương hầu và quan khách đều phải bắt chước đứng lên làm lễ người, dù trong số đó có người nghĩ rằng không có lý do gì mà họ phải tôn trọng vị khất sĩ trẻ này một cách quá đáng như vậy.Sau khi Bụt và các vị khất sĩ đã an tọa, vua ra hiệu cho các người hầu mang thức ăn ra cúng dường.

Chính tay vua cúng dường thức ăn vào bát của Bụt.

Các vị khất sĩ cũng đều được cúng dường một lượt.

Trong khi ấy hoàng hậu và Da Du Đà La hướng dẫn những cung nhân thừa tiếp trên một ngàn tân khách của vua, trong đó có nhiều đạo sĩ Bà la môn, các du sĩ và cả những nhà tu khổ hạnh.

Tất cả đều thọ trai im lặng theo Bụt và tăng đoàn.

Thức ăn thuần là chay tịnh.Sau khi mọi người đã thọ trai và bát của Bụt và của chư vị khất sĩ đã được rửa và trả lại cho từng người, vua đứng dậy chắp tay và thỉnh Bụt thuyết pháp.Bụt ngồi im lặng một lát để quán chiếu tâm ý của đại chúng.

Sau đó người lên tiếng.

Trước hết người nói cho mọi người nghe sơ lược về kinh nghiệm học đạo, tìm đạo và tu đạo của người.

Những điều này, người biết, ai trong đại chúng cũng muốn được nghe.

Rồi Bụt khai thị cho đại chúng về đạo lý vô thường, vô ngã, và duyên sinh của vạn vật, nghĩa là về những khám phá căn bản trong công trình thiền quán của người.

Người nói đến con đường quán chiếu và thực tập tỉnh thức như là con đường duy nhất có thể đưa đến sự diệt khổ và thực hiện an lạc.

Người cũng cho biết là tế tự và cầu nguyện không phải là những phương thức hữu hiệu để đạt tới giải thoát.Rồi Bụt giảng dạy về bốn sự thật căn bản: sự có mặt của khổ đau, nguyên do của khổ đau, khả năng diệt khổ để kiến tạo an lạc và giải thoát, và con đường thực hiện diệt khổ và kiến tạo an lạc.Bụt khai thị thêm: “Ngoài những tai nạn như sinh, già, bệnh, chết, có người còn phải gánh chịu biết bao nhiêu khổ đau khác do mình tự tạo ra cho mình.

Vì vô minh, nghĩa là vì nhận thức sai lầm, con người nghĩ, nói và làm những điều có thể tạo ra cho bản thân mình và cho những người xung quanh rất nhiều nỗi khổ.

Những đau khổ vì giận dữ, hờn oán, nghi kỵ, ganh ghét, bất mãn… đều do ta thiếu sáng suốt mà sinh ra.

Ta sống trong những khổ đau ấy như sống trong một căn nhà đang bốc cháy.

Phần lớn những khổ đau mà ta chịu đều do ta tự tạo ra cho ta.

Ta không thể thoát ra được khổ đau bằng cách cầu cứu một vị thần linh.

Ta phải quán chiếu tâm ta và hoàn cảnh ta để loại trừ những nhận thức sai lầm đã từng là nguồn gốc phát sinh ra các khổ đau ấy.

Ta phải tìm tới ngọn nguồn của đau khổ thì ta mới thật sự hiểu được bản chất của đau khổ.

Một khi hiểu được bản chất của một niềm đau khổ thì ta thoát được ra khỏi niềm đau khổ ấy.Ví dụ có một người kia tới chửi mắng ta.

Ta có thể nổi giận và chửi mắng trả lại người ấy.

Trong trường hợp này ta khổ mà người ấy cũng khổ.

Theo đạo lý tỉnh thức thì không nên vội nổi giận và chửi mắng người kia.

Ta phải bình tâm quán chiếu để thấy được vì sao người kia lại tới chửi mắng ta, nghĩa là ta đi tìm tới cội nguồn của sự giận dữ của người ấy.

Do công phu quán chiếu bình tĩnh đó mà ta có thể thấy được những nguyên nhân sâu xa và chằng chịt nào đó đưa tới thái độ và hành động hôm nay của người ấy.

Nếu ta thật sự có lỗi thì ta thấy sự chửi mắng đó là kết quả tất nhiên của lỗi lầm ta.

Nếu ta quả không có lỗi lầm gì thì chắc chắn đã có một sự hiểu lầm nơi người ấy.

Ta quán chiếu để tìm ra và chứng minh được sự hiểu lầm ấy cho người kia thấy.

Làm như vậy, ta tránh được khổ đau cho ta và cũng giải tỏa được khổ đau cho người kia.Thưa Đại vương và các vị quan khách! Tất cả mọi khổ đau của ta, ta đều có thể thoát ra khỏi bằng đường lối quán chiếu ấy, nhưng muốn quán chiếu cho thành công ta phải biết theo dõi hơi thở, biết thực tập sống theo tinh thần giới định tuệ.

Giới là những nguyên tắc sống cho an lạc.

Có sống theo các nguyên tắc này, ta mới thực hiện được Định.

Định là nếp sống có tỉnh thức, có chú tâm.

Có tỉnh thức và chú tâm ta mới có khả năng quán chiếu về thực tánh của tâm ta và của hoàn cảnh, và có quán chiếu ta mới có Tuệ.

Tuệ tức là sự hiểu biết.Một khi đã có hiểu biết, ta có thể thương yêu và tha thứ.

Cuộc đời sẽ bớt khổ rất nhiều khi ta có hiểu biết.

Nếu không hiểu biết, ta không thể thương yêu và tha thứ.

Cho nên con đường giải thoát chân thật là con đường thực hiện sự hiểu biết.

Hiểu biết là trí tuệ, là bát nhã.

Mà trí tuệ chỉ có thể do quán chiếu đem lại.

Con đường giới, định và tuệ vì vậy là con đường duy nhất đưa tới giải thoát”.Bụt lặng yên một lát rồi mỉm cười.

Người nói tiếp: “Nhưng khổ đau chỉ là một mặt của sự sống.

Sự sống còn có một mặt khác: đó là sự có mặt của những mầu nhiệm trong cuộc đời, và nếu con người được tiếp xúc với những mầu nhiệm ấy, con người sẽ có niềm vui và sự an lạc.

Khi tâm ta được giải thoát, ta tiếp xúc ngay được với những mầu nhiệm ấy.

Nếu ta chứng nghiệm được sự thật về vô thường, vô ngã và duyên sinh thì ta có thể thấy được rằng tất cả đều là mầu nhiệm: từ tâm ý ta, thân thể ta cho đến cành tre tím, bông cúc vàng, dòng sông trong, mặt trăng sáng.Chỉ vì ta tự giam hãm ta trong thế giới khổ đau cho nên ta mới không xúc tiếp được với thực tại mầu nhiệm.

Phá được vô minh rồi, ta sẽ thênh thang trong thế giới của an lạc, của giải thoát, của Niết bàn.

Niết bàn là sự chấm dứt của vô minh, tham đắm và giận hờn.

Niết bàn cũng là sự hiển lộ của niềm an lạc và giải thoát.

Quý vị cứ thử ra nhìn một dòng sông trong hay một tia nắng sớm.

Quý vị sẽ thấy mình đã tiếp xúc được với thế giới của an lạc và giải thoát chưa.

Nếu bị giam hãm trong ngục tù của phiền não, ta vẫn còn chưa tiếp xúc thật sự được với những nhiệm mầu của vũ trụ, trong đó có hơi thở ta, thân và tâm ta.

Phá giặc phiền não bằng phép quán chiếu, đó là con đường tôi đã tìm ra được.

Tôi đã thực nghiệm, đã thành công và đã chỉ bày cho nhiều người khác.

Nhiều người thực hành theo phương pháp ấy cũng đã thành công”.Khi Bụt chấm dứt pháp thoại, người đã chinh phục được hầu hết mọi người trong số những tân khách của vua Tịnh Phạn.

Điều này có thể cảm nhận được trong không khí và trong ánh mắt của các vị tân khách.

Vua sung sướng đã đành mà hoàng hậu Kiều Đàm Di và công nương Da Du Đà La cũng tỏ vẻ hết sức hoan hỷ.

Họ nhất quyết trong những ngày kế tiếp tìm tới với Bụt để được học về những phương pháp quán chiếu thực tiễn có thể giúp họ đạt tới giải thoát và giác ngộ.Sau buổi pháp thoại, vua tiễn Bụt và giáo đoàn ra khỏi hoàng cung rồi mới đưa tiễn các vị tân khách.

Mọi người đều chúc mừng vua về sự thành công của Bụt.Công viên Ni Câu Đà đã được biến thành một tu viện cho Bụt và tăng đoàn.

Ở đây có rất nhiều cây sung cổ thụ.

Các cây này cho Bụt và tăng đoàn rất nhiều bóng mát.

Rất nhiều người đến xin xuất gia thọ trì năm giới của người cư sĩ.

Trong số những người đến xin Bụt xuất gia có cả những thanh niên thuộc dòng họ Thích Ca của người.Da Du Đà La thường đi chung với hoàng hậu và La Hầu La đến thăm và cúng dường Bụt và tăng đoàn tại tu viện.

Bà đã được nghe Bụt thuyết pháp nhiều lần.

Bà cũng đã có cơ hội hỏi Bụt những câu hỏi về sự liên hệ giữa sự tu đạo và công việc cứu tế xã hội.

Bà được Bụt dạy cho những phương pháp theo dõi hơi thở và thực tập thiền quán để nuôi dưỡng sự an lạc trong thân tâm.

Bà biết rằng nếu không có an lạc thì con người không thể giúp được gì cho kẻ khác.

Bà học được rằng phát triển sự hiểu biết cũng là nuôi dưỡng được tình thương.

Bà rất sung sướng tìm ra được rằng bà có thể thực tập thiền quán ngay trong đời sống hàng ngày và trong những lúc làm công tác cứu tế xã hội.

An lạc có thể đạt được ngay trong khi mình làm công việc.

Phương tiện và cứu cánh không còn là hai cái khác nhau.Hoàng hậu Kiều Đàm Di cũng đạt được nhiều tiến bộ tu học trong thời gian mấy mươi ngày sau đó..

Truyện Chữ Hay