Vì châu quan Dự Châu nghe nói căn bệnh này là bệnh truyền nhiễm, nên không muốn chữa trị cho bọn họ, chỉ mong mau mau giải quyết để không làm ảnh hưởng đến kỳ khảo hạch của mình, đại phu cũng chả mời nốt, đúng là coi mạng người như cỏ rác.
Hoàng đế vốn vẫn im lặng giờ đây hoàn toàn nổi giận. Lần đầu tiên trước mặt bao nhiêu người gạt hết tấu chương xuống đất, rồi sau đó phái người chạy tới Dự Châu điều tra.
Về phần gã nạn dân này tại sao nhiễm bệnh lâu như thế mà vẫn chưa chết, ngoài thể trạng khỏe mạnh, dùng thuốc giải độc làm giảm độc tố ra thì đều nhờ vào thần linh che chở, nói là ngay cả ông trời cũng không muốn nhìn vụ bê bối này cứ thế bị che đậy.
Dù sao một gã nạn dân không thể vô duyên vô cớ đi bịa ra loạt tin đồn khủng khiếp như vậy, vừa tra là biết thật giả, so với việc tra lai lịch của gã thì chuyện gã nói mới là vấn đề nguy cấp hàng đầu.
Cùng lúc đó, Vương Trác bị nghi có dính líu đến vụ cấu kết với châu quan, cũng đã bị hoàng đế hạ lệnh giam giữ. Trong kinh thành dần dần nổi lên những lời đổn thổi, rằng Vương Trác mới chính là nguồn cơn dịch bệnh lây lan, ông ta có liên hệ chặt chẽ với Dự Châu, thuốc giải lúc trước cũng do ông ta bào chế ra.
Trên đây là toàn bộ tin tức được truyền khắp. Tuy biết rõ chân tướng, nhưng trong bụng ta vẫn thầm cảm thán cách làm này của Hồ Nguyên Ly thực sự thông minh, ầm ĩ tới mức cả thiên hạ đều biết, bất cứ ai cũng chẳng thể tiếp tục lấp liếm. Dù vậy, ta cứ có cảm giác mơ hồ không ổn.
Nhìn vào cục diện hiện giờ, dường như tất cả mọi chuyện đang đổ hết lên đầu châu quan. Hơn nữa, tại sao chả thấy nhắc đến lời Tô Tử Thuần đã nói, bệnh truyền nhiễm không phải “dịch bệnh” hết thuốc chữa?
Có điều, khi nghĩ tới xuất thân thế gia của Hồ Nguyên Ly, hắn tự nhiên cũng phải cân nhắc tương đối kỹ, nếu châu quan bị điều tra, người sau lưng hắn chắc hẳn cũng không trốn được. Vì lẽ đó, giờ đây ta chỉ có thể bình tĩnh theo dõi từng biến động.
Tin tức truyền ra, Cao Yển lại trở về với vẻ u ám nặng nề, cả ngày chả nói năng gì, ta cố ý tới thăm dò ý của y, lại bị y cho đứng ngoài cửa. Cho tới tận buổi tối ngày thứ năm sau khi tin rầm rộ, phòng ta mới chào đón một người tới, chính là Hồ Nguyên Ly đã lâu không gặp.
Ta vừa thuần thục dập tắt ánh nến, vừa phấn khởi quay đầu hỏi hắn: “Sao rồi? Mọi việc suôn sẻ chứ ạ?”
Hồ Nguyên Ly tựa lưng vào cửa sổ, cả người chìm trong quầng sáng của trăng, vụn sáng leo lét mờ ảo, ta chỉ nghe được mỗi giọng nói của hắn: “Ngày mai người hoàng thượng phái đi Dự Châu điều tra mang tin về, đến lúc đó hoàng thượng sẽ ban chỉ dụ.”
“Vậy hoàng thượng sẽ xử phạt như nào, ngài có nghe ngóng được không?” Ta khẩn trương hỏi.
Hồ Nguyên Ly cử động cơ thể tiến lại gần ta, bấy giờ ta mới trông thấy gương mặt hắn chẳng có chút ý mừng nào, lòng chợt chùng xuống.
Hắn nói, sắc mặt không thay đổi: “Châu quan Dự Châu nhận hối lộ trái pháp luật, giấu trên lừa dưới, ba đời trực hệ ban chết tại chỗ, không cần áp giải về kinh thành, những người khác trong họ bị lưu đày tịch thu tài sản.”
Hình phạt nặng đến ngỡ ngàng, ta đợi hồi lâu không nghe Hồ Nguyên Ly nói tiếp, rốt cuộc không nhịn được hỏi: “Vậy… Tề vương thì sao?”
Hồ Nguyên Ly nhếch môi, thốt lên mấy chữ: “Tề vương sơ suất trong việc giám sát, lúc trị thủy không phát giác ra tội của châu quan Dự Châu, bị phạt bổng lộc một năm.”
Ta chớp chớp mắt, buột miệng hỏi: “Hết rồi?”
“Hết rồi.”
Hồ Nguyên Ly trả lời, tiếng nói không lớn, ngữ khí khẳng định chắc nịch.
Đầu ta như đóa pháo hoa nổ tung, đến nỗi bên trong chỉ còn là một vùng trắng chói lóa, mất một lúc lâu ta mới tìm về được giọng của mình: “Vậy khởi nguồn của dịch bệnh trong hoàng thành thì sao? Không ai tra ra luôn ư?”
Hồ Nguyên nói một tràng chẳng hề ngắt nghỉ như đang đọc công văn: “Lúc châu quan Dự Châu đút lót cho Vương Trác, đã vô tình kẹp theo món đồ mà người nhiễm bệnh trong làng từng sử dụng, mới khiến hoàng thành bất ngờ bùng phát dịch bệnh. Châu quan biết được, dần hình thành bóng ma tâm lý, nên đã gửi thư cho Vương Trác nhờ che giấu giúp. Vương Trác hay chuyện nhưng không báo, bị coi là đồng lõa, dù có công lao nghiên cứu ra thuốc giải thì vẫn bị phán ba ngày sau xử tử.”
Trái tim lạnh buốt, ta hỏi theo bản năng: “Vậy khi hoàng thành xảy ra dịch bệnh, Tề vương từng ở Dự Châu một đoạn thời gian mà không thấy nói gì, việc này không ai nhắc ư? Dự Châu cách hoàng thành mấy ngàn dặm, ngôi làng kia đã sớm bị nhấn chìm, tại sao lại tòi ra đồ người nhiễm bệnh từng sử dụng?”
“Châu quan cố tình giấu kín chuyện ngay trên địa bàn của mình, Tề vương cũng không biết.” Mắt Hồ Nguyên Ly trầm xuống, đáp cực kỳ đơn giản.
Nghe thế, ta khó tin hỏi: “Không biết? Ngày nào cũng tán dương ca tụng đủ đường, rằng Tề vương là người xuất chúng nhất trong số các hoàng tử, ngài ấy bảo không biết có chuyện này phát sinh mà cũng có người tin? Bao nhiêu người chết như thế, cho dù tính mạng nô tài chả đáng bao đồng, nhưng cả trưởng tôn của hoàng thất cũng vì vậy mà chết, tại sao chỉ điều tra qua quýt mấy bước đã kết luận rồi?”
Đứng trước vô vàn chất vấn dồn dập của ta, Hồ Nguyên Ly im phăng phắc, sắc mặt tệ cùng cực. Ta hít sâu một hơi, nhấc chân định đi ra ngoài thì bị hắn duỗi tay níu chặt.
“Ngươi muốn làm gì?”
Ta vùng vẫy, nhưng không thể thoát khỏi gông cùm của hắn, thẳng thừng mở miệng nói: “Nô tỳ muốn đi gặp Vương Trác, chuyện châu quan bị xử tử tại chỗ cũng chỉ có Vương Trác biết. Y thuật của ông ta còn cao siêu như thế, chắc chắn không thể không biết dịch bệnh lần này không gây chết người. Trước khi hành quyết, có khi lại cạy được miệng ông ta.”
Hồ Nguyên Ly mỗi lúc một siết chặt tay ta, khiến bàn tay ta trắng bệch cả đi. Hắn nói: “Vô dụng thôi, Vương Trác đã nhận tội.”
“Cho nên ngài cứ để thế hả? Chẳng phải ngài nói sẽ khiến kẻ đứng sau trả cái giá thật xứng đáng sao?” Ta không thể kiềm chế nổi cảm xúc đang trào dâng của mình, giọng nói trở nên sắc nhọn: “Còn thái tử thì sao? Người chết là trưởng tử của ngài ấy, ngài ấy chấp nhận kết cục này luôn ư? Tốn biết bao là tâm sức đi điều tra, rồi giờ để nó cứ thế mà kết thúc à?”
Hồ Nguyên Ly không nổi nóng, ánh nhìn có phần áp lực: “Đồ Mi, thánh chỉ của hoàng đế đã ban, muộn nhất là ngày mốt sẽ chiêu cáo thiên hạ.”
Cho nên, chỉ có ngần ấy mà đã muốn bước tới hồi kết luôn rồi sao? Giết một thái y và một y quan, sau đó che đậy mọi việc bằng cách lấy lý do rằng là “ngoài ý muốn”, là “sơ sẩy”?
“Nô tỳ muốn gặp Vương Trác.” Ta gằn từng chữ một.
Hồ Nguyên Ly đau đầu nhìn ta hồi lâu, thấy ta vẫn chả có động tĩnh gì, hắn cất giọng nói vẻ chán nản: “Giờ Vương Trác đã bị giam, ta không thể dẫn ngươi đi công khai thẩm vấn, đừng quên, thân phận của người vẫn còn là người của Tần vương phủ.”
Lửa lòng phụt cháy phừng phực, thiêu trụi hết cả ngôn từ, khiến ta không thốt lên lời.
Trước khi đi, Hồ Nguyên Ly nhìn ta vẫn còn đang trong trạng thái mê man, hắn lo lắng nhét túi hương vào tay ta, như là đã đoán được ta sẽ như thế, còn nói có tác dụng an thần. Bề mặt túi hương là chất lụa đỏ cùng với nét hoa văn khó hiểu, bên trong đựng hương liệu có mùi thơm quen thuộc, y như cái từng xuất hiện chỗ đầu giường của ta.
Nhưng bấy giờ, tác dụng an thần của túi hương mất sạch, suốt cả đêm ta trằn trọc không tài nào ngủ nổi.
Ngày hôm sau, mọi việc diễn ra không khác là bao so với những lời Hồ Nguyên Ly nói, dịch bệnh bắt nguồn của ngôi làng của Dự Châu chính thức trở thành kết luận cuối cùng. Ai cũng biết ngôi làng đó đã bị xóa sổ theo lệnh của châu quan Dự Châu, nhưng không một người nào biết trong thành Dự Châu có một gia đình cũng từng nhiễm phải thứ bệnh tương tự, vì người nhà đó tự khỏi bệnh nên chả ai liên tưởng đến cơn dịch này. Mà chỉ có ta, Hồ Nguyên Ly, Tô Tử Thần,... và kẻ thủ ác đứng đằng sau biết.
Mọi người đều cảm khái rằng ông trời có mắt, đền bù oan khuất cho cái chết thương tâm của cả làng. Vương Trác - người vốn được dân chúng và quan viên cung phụng như thần - vì nhân cách suy đồi bại hoại, nay đã thành “chuột chạy qua đường” trong miệng người người nhà nhà.
(Chuột chạy qua đường: Ví với bọn xấu đáng căm hờn)
Đã có quan viên mới đến Dự Châu tiếp quản chức vụ, ba đời trực hệ nhà châu quan Dự Châu bị ban rượu độc tự sát, những người khác lưu đày, còn Vương Trác thì ba ngày sau lãnh hình phạt treo cổ hành quyết.
Vì Vương Trác không lấy vợ, cha mẹ lại ở Dự Châu, nên hoàng thượng chỉ hạ lệnh tịch thu phủ đệ trong hoàng thành, vẫn chưa liên lụy tới song thân của ông ta.
Có điều các quan viên phụng mệnh tới nhà Vương Trác lục soát không thu hoạch được gì, ông ta lại tỏ thái độ vò mẻ chẳng sợ nứt, khai rằng đã tiêu toàn bộ số tiền hối lộ mà châu quan Dự Châu đưa. Nhất thời, càng có nhiều dân chúng khinh thường phỉ nhổ.
Đương nhiên, Cao Hoằng Lãng từng đến Dự Châu giải quyết lũ lụt cũng vì không phát hiện nên bị khiển trách, nhưng cũng chỉ… có thể mà thôi.
Dưới sự chủ động xin xử phạt của hắn ta, cộng thêm đám quan viên do Cao Yển đứng đầu cầu xin, hoàng đế chỉ phạt hắn ta bổng lộc một năm, quan thì giáng xuống nửa bậc.
Càng ngày ta càng ít nói, ngay cả Hàm Ngọc vốn tính kiệm lời cũng hỏi tại sao ta lại trở nên im lặng như thế. Không biết vì sao, giữa ta và Cao Yển dường như đã hình thành nên một lớp ngăn cách, dường như y đã biết điều gì, mấy ngày liền trưng ra bộ mặt u ám với ta, mà ta cũng chả có tâm trạng nào để ứng phó.
Trước một ngày Vương Trác bị xử tử, ta đang ở hậu viện cho cá ăn, Hồ Nguyên Ly một lần nữa xuất hiện, ban ngày ban mặt, hắn chẳng để ý gì sất.
Ngay khi ta làm bộ như không thấy toan xoay người rời đi, hắn đột nhiên nói: “Ngươi muốn đi gặp Vương Trác không?”
Bước chân ta hơi khựng, quay đầu nhìn hắn, chỉ thấy gương mặt tràn đầy bất đắc dĩ của Hồ Nguyên Ly: “Quả thực ta không có cách nào đưa ngươi vào nhà lao, nhưng có người có thể. Tô Tử Thuần bảo muốn tới gặp sư huynh của hắn một lần cuối cùng, nếu ngươi muốn thì hãy giả làm y đồng của hắn để vào cùng.”
Hai mắt ta ngời sáng, vội gật đầu như gà mổ thóc, vẻ mặt Hồ Nguyên Ly cũng dần thả lỏng.
Đầu tiên ta thay bộ quần áo nam Hồ Nguyên Ly mang tới, theo sau Tô Tử Thuần trang phục trắng thuần, đi vào nhà lao hoàng thành.
Tâm trạng Vương Trác có vẻ không được tốt lắm. Hồ Nguyên Ly không đi theo chúng ta, nhưng phía nhà giam chắc chắn hắn đã thu xếp kha khá, bởi vậy chúng ta mới thuận lợi vào được bên trong.
Vương Trác mặc đồ tù nhân, bị nhốt ở tận sâu trong cùng nhà lao. Lúc chúng ta gặp ông ta, ông ta đang ngồi dưới nền đất ẩm thấp, tay chân bị xiềng xích nặng trình trịch khóa lại, nhưng trên khuôn mặt lấm lem bùn đất kia vẫn hiển hiện nét tĩnh lặng an nhiên.
Trông thấy Tô Tử Thuần, Vương Trác sửng sốt hồi lâu, đó là nét mặt ta chưa gặp bao giờ, như là bạn cũ xa cách nhiều năm giờ gặp lại, lại như nhìn thấy thứ đánh mất rồi mà còn tìm về được.
Lúc sau ông ta mới hỏi một câu: “Sao giờ đệ lại tới đây?”
Theo lời ông ta nói, có thể ông ta đã biết tin tức Tô Tử Thuần ở hoàng thành từ sớm.
Vẻ mặt Tô Tử Thuần không có gì khác thường, chỉ là ta thấy bàn tay sau lưng hắn ta đã cuộn chặt, tuy nhiên giọng điệu lại bình tĩnh và lạnh lùng như hai con người hoàn toàn khác: “Nghe nói huynh sắp chết, ta đến xem.”
Vương Trác không nổi đóa, vẫn thong dong nói: “Xem xong rồi đấy, có gì thắc mắc nữa không?”
Hai mắt Tô Tử Thuần đỏ ngầu nhìn ông ta chòng chọc, chẳng quan tâm đằng sau còn ta đang đứng, dứt khoát nói: “Có một vấn đề, ta cũng đã hỏi huynh suốt mười mấy năm, mà huynh cứ bảo không có. Giờ huynh sắp chết rồi, ta hỏi lại lần nữa.”
Vương Trác khẽ cụp mắt, tựa hồ biết tỏng Tô Từ Thuần sẽ hỏi gì tiếp theo.
“Cái chết của sư phụ rốt cuộc có phải huynh làm hay không?”
Lời vừa dứt, phút chốc cả phòng giam chìm vào một bầu không khí lặng ngắt chết chóc.
Ta gục đầu, câm bặt như người vô hình. Cả buổi trời mới có giọng nói vang lên trong căn phòng, hai chữ nhẹ nhàng thôi mà như muốn đục khoét vào lòng người hai cái hố sâu hoắm.
“Là ta.”
“Tại sao?” Giọng Tô Tử Thuần hơi run run.
Vương Trác chả lấy gì làm hổ thẹn, thờ ơ như thể đang thảo luận về thời tiết hiện tại, ông ta nói: “Đã làm cả rồi, nói nữa cũng có ích gì?”
Sắc mặt Tô Tử Thuần lúc trắng lúc xanh, những đường gân nổi lên trên trán, ta cảm giác ngay tiếp theo đây hắn ta sẽ bật ra những lời không được hay ho cho lắm, nhưng cuối cùng hắn lại gấp gáp xoay gót bỏ đi, như sợ ở lại chỗ này thêm một giây phút nào nữa sẽ không kiềm chế được mà ra tay.
Nhất thời chỉ còn hai người ta và Vương Trác trong phòng giam. Không đợi ta lên tiếng, Vương Trác đã nhìn về phía ta, giọng điệu cực kỳ ôn hòa: “Cô nương là người trong lòng sư đệ?”
Ta phủ nhận, tức thì sắc mặt Vương Trác lạnh hẳn: “Nếu đã thế, phiền cô nương đến từ đâu thì về chỗ đó đi, không phải lãng phí thời gian ở chỗ ta đâu.”
Chúng ta từng gặp mặt một lần, chắc ông ta nhận ra ta. Thế rồi ta cũng không lòng vòng nữa, nói thẳng: “Nếu Vương đại nhân một lòng muốn chết, cớ gì lại sợ nói mấy lời với tôi?”
Vương Trác đốt mặt với ta không né tránh: “Không phải sợ, mà là không muốn cô nương phí phạm thời gian với ta.”
“Vương đại nhân biết tôi sẽ nói gì à?” Ta nắm lấy hàm ý trong lời ông ta.
Vương Trác ngẩn người, một lúc sau lại khôi phục như thường: “Ta cấu kết đưa hối lộ với châu quan mới gây ra tai họa không đáng có cho hoàng thành, cô hỏi một lần, hai lần, hay một trăm lần, kết quả cũng vẫn là như vậy.”
Dáng vẻ ung dung điềm tĩnh này đâu giống như người ngày mai sẽ bị treo cổ.
Ta bèn áp dụng kịch bản tình thân mà người bình thường hay dùng ở những kiểu tình huống thế này: “Vương đại nhân thực sự không thiết sống chút nào sao? Nghe nói song thân của ông vẫn còn ở quê nhà, giờ miệng Vương đại nhân cứ kín như bưng, kẻ đứng sau đáng giá để ông bằng lòng trung thành vậy ư?”
Dù ta châm ngòi cỡ nào, Vương Trác cũng chẳng xi nhê gì: “Sau lưng ta không có ai cả, dịch bệnh lần này đều do sơ hở của ta.”
“Dịch bệnh?” Ta không khỏi cười thành tiếng, “Đại nhân đừng nói kiểu đấy để lừa gạt tôi nữa, tôi và Tô tiên sinh tới đây, ngài ấy đã thấy những người nhiễm bệnh ở Dự Châu lẫn trong hoàng thành, đại nhân cho rằng tôi vẫn lầm tưởng là dịch bệnh à?”
Vương Trác không nói, ta tiếp lời: “Đương nhiên đại nhân có thể bình thản chết đi, nhưng hơn chục người vô tội bỏ mạng trong sự cố này, đại nhân thực sự muốn nhìn kẻ hại họ sống yên ổn hết đời ư? Dịch bệnh không gây chết ngươi, vậy họ tại sao lại chết, trong lòng đại nhân không rõ sao?”
Đã đến nước này, rốt cuộc Vương Trác không làm ngơ nữa, nhưng ánh mắt của ông ta lại như đang nhìn một thằng hề đang nhảy nhót: “Tiểu cô nương, ta không phải thiếu niên mười, hai mươi tuổi, mười năm hành y ta đã chứng kiến bao nhiêu lần sống chết, lý do của cô chẳng có tác dụng gì với ta đâu.”
Ngực hơi nghẹn, ta nhịn không nổi nữa mà thốt lên: “Vậy đại nhân có biết trong số những người chết, người lớn nhất cũng chỉ ở độ hai mươi tuổi, đây chính là thiếu niên theo định nghĩa của đại nhân, họ vốn dĩ có thể được nhìn thấy bao ca sinh tử như ông, ấy mà giờ lại bị hại oan chết uổng. Khoảng thời gian đại nhân bị giam, trong thâm tâm thực sự không xấu hổ chút nào luôn sao?”
Đôi mắt màu nâu của Vương Trác tối sầm lại, nhưng giọng điệu vẫn chẳng mảy may quan tâm: “Từ lúc ta làm nghề y, đã từng cứu vô số mạng người, bằng không cô nghĩ tại sao ở thái y viện ta lên chức nhanh như thế, đó là vị trí ta đã dùng những sinh mạng cướp về từ âm phủ để đổi lấy. Hàng ngàn hàng vạn người được cứu, chả lẽ không sánh nổi với mấy chục mạng người chết à? Dù có xuống âm phủ đếm công trạng, e là cả Diêm Vương cũng không xác định được đấy.”
(còn tiếp)