- Nạn dân sao?
Từ sau khi từ hoàng cung đi ra, trong đầu Lưu Lăng vẫn luôn nhớ tới những lời của Hiếu Đế đã nói. Hắn cười thầm trong lòng, thầm nhủ:
- Nhị ca ta, huynh nói là nạn dân, thì đó chính là nạn dân.
Lại nhớ tới sứ thần Liêu quốc sẽ tới nhận cống phẩm, trong lòng hắn vang lên một tràng cười lạnh. Đại Liêu, hừ, cống phẩm có thể giao cho ngươi, chỉ e là tới khi đó ngươi một đồng cũng không lấy đi được!
Hắn đi ra khỏi hoàng cung, Triệu Nhị dẫn theo mấy tên thị vệ đang chờ hắn. Lưu Lăng nhảy lên lưng ngựa, vẫy tay nói:
- Đi thôi, chúng ta hồi phủ.
Triệu Nhị nói:
- Vương gia, vừa rồi gã sai vặt trong nhà Tể tướng Lư đại nhân len lén truyền tin, nói Lư đại nhân đang ở Tụ Hiền lâu chờ ngài.
Ánh mắt Lưu Lăng sáng lên, liền vung roi lên khẽ quát một tiếng:
- Đi!
Lưu Lăng vốn được cưỡi ngựa trong cung cấm, đặc quyền đeo đao trong điện. Nhưng thứ này chẳng qua là thể hiện sự tín nhiệm của Hoàng đế dành cho hắn. Lưu Lăng cũng không ngốc, thực sự dám cưỡi ngựa giương đao trong cấm cung. Hắn không trực tiếp tới Tụ Hiền lâu, mà trước tiên trở về phủ Trung thân Vương.
Sau khi trở về Vương phủ, Lưu Lăng đã hỏi thăm một chút tình hình của Vương Tiểu Ngưu. Tiểu binh này chịu khổ vẫn chưa tỉnh lại, nhưng tình hình cũng đã có chuyển biến tốt hơn rồi. Thật ra, chàng thư sinh Chu Diên Công bị Nhạc Lỳ Lân bắt tới đã khôi phục thể lực. Mặc dù không có cái lộn, nhưng tên này cũng có thể nói là một diệu nhân, không ngừng kêu đói, khát, giống như phủ Trung thân Vương này chính là một cái khách sạn vậy.
Lưu Lăng cười trừ, cũng không buồn chú ý gì tới. Hắn thay quần áo, cũng không mang theo nhiều tùy tùng, chỉ để cho Triệu Nhị dẫn theo hai thị vệ đi cùng. Sau đó gọi thêm cô bé Liễu Mi Nhi. Một đoàn năm người từ cửa sau Vương phủ đi ra, đi bộ về phía Tụ Hiền lâu.
Tụ Hiền lâu là một tửu lầu thâm niên nhất ở tỉnh Thái Nguyên. Ông chủ họ Quách, tên là Quách Chính Huy, khoảng chừng trên dưới tuổi. Khuôn mặt chữ điền, cũng là tướng mạo đường hoàng. Nghe nói còn là hậu nhân của danh tướng Đại Đường Quách Tử Nghi. Nhưng sự thực thì có phải như vậy hay không cũng không biết được.
Niên đại của Tụ Hiền lâu này còn lâu đời hơn cả Bắc Hán quốc. Bắc Hán từ khi Lưu Nghiệp kiến quốc tới nay chưa đầy hai mươi mấy năm, mà Tụ Hiền lâu này nghe nói đã có không dưới trăm năm lịch sử. Vào những năm cuối triều Đường, thiên hạ đại loạn, khắp nơi khỏi lửa liên miên, khắp nơi đều là đánh nhau. Tụ Hiền lâu có thể không bị gục ngã trong thời loạn thế, vì vậy có thể thấy Quách gia này thật sự có nội tình nhất định.
Tụ Hiền lâu là một nhà lầu có kết cấu bằng gỗ hai tầng. Mặc dù lịch sử đã trải qua hàng trăm năm, nhưng vẫn vô cùng vững chắc. Từ vết tích đã loang lổ trên cột, còn treo tấm biển cũ kỹ viết ba chữ Tụ Hiền lâu đều có thể chứng thực được từ một phương diện tòa nhà này thực sự đã trải qua mưa gió.
Ngoài cửa có một đứa nhỏ mặc áo vạt ngắn, trên vai vắt một chiếc khăn lông nhiệt tình gọi khách. Dải Sơn Tây Thiểm Tây thực sự không có món ăn gì nổi tiếng. Tụ Hiền lâu này chủ yếu không ngờ lại là món ăn Tứ Xuyên. Lưu Lăng rất thích hương vị thơm ngon cay ngọt đó của món ăn Tứ Xuyên. Bởi vì nó có thể khiến cho hắn nhớ tới kiếp trước. Nên nhớ, ở kiếp trước, phụ thân của hắn chính là một đại sư nấu món ăn Tứ Xuyên nổi tiếng gần xa.
- Mấy vị khách quen, đã lâu không thấy các ngài ghé qua.
Vẻ mặt rạng rỡ của tiểu nhị nghênh đón.
Làm lâu ở Tụ Hiền lâu này, tiểu nhị của quán này sớm đã luyện được mắt lửa ngươi vàng nhìn người. Mặc dù mấy người Lưu Lăng ăn mặc tùy ý, nhưng khí thế trên người Lưu Lăng khó mà che giấu được. Tiểu nhị của quán đã gặp qua nhiều người, vừa nhìn là biết mấy người này có thân phận lớn.
- Trên lầu còn có phòng trang nhã, tiểu nhân đưa mấy vị khách quý lên trên được chứ?
Vẻ mặt nịnh nọt của tiểu nhị trong quán nói.
Triệu Nhị khoát tay nói:
- Có chỗ rồi, tử khí đông lai.
Tiểu nhị liền nói:
- Vâng, mấy vị đi theo tiểu nhân.
Lưu Lăng bước vào Tụ Hiền lâu, đầu tiên nhìn thấy ở vị trí chính bắc của sảnh có một pho tượng gỗ. Pho tượng này rõ ràng đã nhiều năm rồi, nhưng vẫn như cũ, nhìn vẫn còn rất sinh động. Bức tượng gỗ này cao khoảng m, tỷ lệ cân đối, nhìn dáng vẻ giống như là bút tích của một vị đại sự nào đó điêu khắc.
Bên cạnh tượng gỗ còn điêu khắc một câu đối, bút pháp rồng bay phượng múa. Vế trên câu đối là: Quyền khuynh thiên hạ nhi triều bất kỵ. Vế dưới là: Công cái nhất đại nhi chủ bất nghi. Bổ ngang là bốn chữ, “Trung vũ bảo quốc”.
Lưu Lăng vừa nhìn câu đối này, liền biết bức tượng gỗ này tất là Quách Tử Nghi. Quách Tử Nghi là danh tướng của thời kỳ Trung Đường, lấy thân phận võ cử nhân nhập ngũ tòng quân, quân công tích lũy đã lên tới vị trí Thái thú Cửu Nguyên, Tiết Độ Hữu Binh Mã Sứ Sóc Phương. Sau khi loạn An Sử bùng nổ, hắn được bổ nhiệm làm Tiết độ sứ Sóc Phương, dẫn quân thu phục hai kinh đô Lạc Dương và Trường An, dẹp loạn lập công đầu, sau được tấn thăng Trung Thư Lệnh, phong làm Phần Dương Quận Vương.
Ở tiền thế Lưu Lăng cũng có chút hiểu biết về vị tướng Quách Tử Nghi này. Hắn cũng vô cùng ngưỡng mộ danh tướng Đại Đường này.
Thận trọng liếc nhìn lại bức tượng của Quách Tử Nghi, Lưu Lăng mới bước lên cầu thang. Tiểu nhị của nhà lầu đó đi trước dẫn đường, vừa đi vừa nói:
- Bên đó là lão tổ tông của chưởng quầy chúng ta, Trung Vũ Công Phần Dương Quận Vương - Quách lão thái gia. Người chính là danh tướng lớn, cả đời chưa từng thất bại.
Lưu Lăng mỉm cười, cười trừ với tên tiểu nhị này.
Lên tới lầu , tới nhã gian của Tử Khí Đông Lai, tiểu nhị dừng lại ở đây, khom người mời Lưu Lăng đi vào. Hai tên thị vệ đứng hai bên trái phải cửa. Triệu Nhị thì cùng Liễu Mi Nhi tìm một chỗ ngồi xuống.
Lưu Lăng vừa vào cửa, lão Tể tướng Lư Sâm liền đứng lên nghênh đón.
- Hạ quan bái kiến Trung thân vương.
Lư Sâm khom người hành lễ, liền bị Lưu Lăng kéo lại. Lưu Lăng bật cười ha hả nói:
- Lư đại nhân, ở đây không phải triều đường, lễ nghĩa này miễn đi. Hơn nữa, hôm nay muốn bái cũng nên là Lưu Lăng bái tạ Lư đại nhân đã toàn lực giúp đỡ.
Lư Sâm nói:
- Hổ thẹn, Lư mỗ cũng là thần dân của Đại Hán ta. Trung thân vương nhất định không được nói như vậy.
Lưu Lăng bật cười ha hả nói:
- Giữa ngài và ta không nên khách khí như vậy, không biết Lư đại nhân tìm ta tới là có chuyện gì?
Lư Sâm ban đầu đề Lưu Lăng ngồi xuống, sau khi rót cho Lưu Lăng đầy một ly rượu, thở dài một cái, ngẩng đầu lên nhìn Lưu Lăng. Sau đó lại thở dài, muốn nói nhưng lại thôi.
Lưu Lăng nhìn vẻ mặt của Lư Sâm hết sức buồn cười. Hắn liền nâng ly rượu lên uống một ngụm hỏi:
- Hay là Lư đại nhân có chuyện gì khó nói?
Lư Sâm há miệng thở dốc, lại thở dài một cái.
- Thôi đi, Trung thân vương, vẫn là nói chuyện chính trước đi.
Lư Sâm kính Lưu Lăng một ly rượu xong liền nói:
- Sau buổi triều sáng, người của Hình bộ phụng chỉ kiểm tra và kê biên tài sản của nhà Lễ bộ Thị lang Lục Minh.
Lư Sâm lấy từ trong áo ra một tờ giấy chuyển cho Lưu Lăng nói:
- Tờ giấy này là danh sách kê biên tài sản nhà Lục Minh, Trung thân vương xem qua một chút.
Lưu Lăng thấy sắc mặt Lư Sâm trịnh trọng, lấy kết quả danh sách ra hỏi:
- Hay là có chuyện gì kỳ quái?
Lư Sâm thở dài nói:
- Vương gia sau khi xem xong sẽ hiểu.
Lưu Lăng gật đầu, mở tờ danh sách ra xem qua một lượt, chỉ thấy hai ba hàng không khỏi hít một hơi khí lạnh! Tên Lục Minh này quả nhiên là có điểm kỳ quái!
Vàng một nghìn hai trăm lượng, tiền ba nghìn quan, đông châu viên, đá mắt mèo viên, san hô ba thước một gốc….
Trong lòng Lưu Lăng chấn động, chỉ là con số này thôi, dù là Lưu Lăng cũng còn xa mới có được. Lưu Lăng chính là Thân vương, nhưng trên dưới nhà hắn đều không thể lấy ra / tài sản của danh sách này. Lục Minh hắn ta là Thị lang tứ phẩm. Bổng lộc mỗi tháng chưa quá quan, chính là vì quan ngũ cả đời cũng không thể tích lũy được nhiều tiền bạc như vậy.
Lưu Lăng xem xong tờ danh sách, trong lòng đã có tính toán. Hắn quay đầu lại nhìn Lư Sâm hỏi:
- Có thư từ gì không?
Lư Sâm khen ngợi:
- Vương gia anh minh, thoáng chốc đã nghĩ tới điểm này.
Lão lấy từ trong tay áo ra một xấp thư chuyển cho Lưu Lăng, khoảng mười mấy bức thư. Những bức thư này đều dùng gấm góc, cho nên cũng không quá nặng. Mà loại gấm vóc này, trong số người dân bình thường cũng khó mà nhìn thấy được.
Lưu Lăng nhận thư cũng không vội mở ra xem, mà đặt trên bàn, trước tiên hỏi Lư Sâm:
- Nghĩ tới Lư đại nhân đã xem qua rồi, thư này có lẽ không phải là từ phía bắc tới. Hay là… là phía tây?
Lư Sâm tái mặt đi, chắp tay nói:
- Hạ quan khâm phục! Vương gia còn chưa xem những bức thư này, đã suy đoán được chính là từ phương tây gửi tới sao?
Lưu Lăng bật cười ha hả nói:
- Đại Liêu quốc chủ Da Luật Hùng Cơ tự cho mình là cao. Người này xem Hán quốc ta chẳng ra gì. Tự cho rằng thiết kỵ xuôi xuống phương nam không cần khí lực quá lớn cũng có thể tiêu diệt Hán quốc nước ta. Quả thật, Liêu quốc nắm trong tay không dưới năm sáu mươi vạn quân, nếu triệu tập toàn lực của cả nước đạt đến binh lực trăm vạn cũng không phải là quá. Cho nên, Liêu quốc không cần tiêu tốn nhiều tiền như vậy để thu mua gian tế. Phía tây thì không bằng, Tây Hạ Vương Nguyên Hạo chính là kiêu hùng đương thế. Tây Hạ vừa mới kiến quốc, chính là lúc muốn phát triển khát vọng hùng tâm.
Hắn dừng lại một lúc, nói tiếp:
- Luận về quốc lực, Tây Hạ mới kiến quốc chưa được năm, nội tình không đủ. Nhưng nắm giữ binh lực không dưới năm mươi vạn. Quốc lực cũng vượt xa Đại Hán ta. Liêu quốc phương bắc, Hậu Chu phương nam, lại cộng thêm Đại Hán ta. Tây Hạ phải đối mặt với ba nước này duy có thực lực của Đại Hán ta là yếu nhất. Nếu Nguyên Hạo muốn mở mang bờ cõi, chỉ e là sẽ tấn công Đại Hán ta đầu tiên đấy.
Lư Sâm nói:
- Vương gia chưa đọc thư đã biết rõ sự tình rồi, hạ quan khâm phục. Khả năng suy đoán này, hạ quan chắc chắn không thể sánh kịp. Chỉ là, chuyện này Vương gia sao có thể biết được?
Lưu Lăng thở dài nói:
- Bức thư này trước tiên ta sẽ giữ lại, sau đó ta sẽ trình lên Hoàng đế Bệ hạ. Tiếc là, nếu sớm biết còn có quan hệ này... tên Lục Minh đó xem ra chết có chút dễ dàng quá rồi.
Lư Sâm nói:
- Vương gia, trong những bức thư này liên tiếp nhắc tới một người, dặn dò Lục Minh có chuyện có thể tìm tới người này thương lượng. Người này có lẽ chính là Tây Hạ phái tới làm mật thám. Nhưng, trong thư lại không nói người này là ai. Nhưng thật ra có đề cập tới nơi mà Lục Minh và người Tây Hạ đó gặp mặt, chính là… chính là một nơi phong nguyệt.
- Hả?
Lưu Lăng nhíu mày, hỏi:
- Nơi phong nguyệt?
Lư Sâm gật đầu nói:
- Đúng vậy, trong thư nhắc tới, nếu có thông tin, để Lục Minh tới Tiên Duyên Nhân Gian truyền lại là được.
- Tiên Duyên Nhân Gian?
Lưu Lăng rất lạ lẫm với nơi này, chưa từng chú ý xem nơi nào trong thành Thái Nguyên này có một nơi phong nguyệt như vậy. Lư Sâm thấy Lưu Lăng mê man. Lão đứng lên đi tới trước cửa sổ, mở cửa sổ, đưa tay ra chỉ ra phía ngoài nói:
- Vương gia, Tiên Duyên Nhân Gian này chính là ở đây!
Lưu Lăng bước tới xem, chỉ thấy Tiên Duyên Nhân Gian này cũng là một lầu gỗ hai tầng. Bởi vì trong thời kỳ tang tiên đế, ở đây cũng đã không còn treo dải lụa hồng trước cửa như ngày xưa. Bởi vì Bát môn tuần sát ti và hai nha môn của Thái Nguyên Phủ đều hạ nghiêm lệnh, trong thời kỳ chịu tang không cho phép kinh doanh thanh lâu, cửa chính của Tiên Duyên Nhân Gian này đóng chặt, trên cửa treo tấm biển tạm dừng kinh doanh, nhưng cửa bên thì mở, ngẫu nhiên có người ra vào.
- Ở đây sao?
Lưu Lăng cười nói:
- Người Tây Hạ này thật ra rất biết tìm chỗ. Thanh lâu tửu lầu, hai nơi này tính lưu động lớn nhất. Mặc dù là có người lạ mặt ra vào cũng không thể thu hút sự chú ý.
Lư Sâm gật đầu nói:
- Vương gia, hạ quan lo lắng là… hiện giờ Đại Hán ta tân Hoàng đăng cơ, lại đúng năm gặp thiên tai. Sứ thần Liêu quốc sắp tới thúc giục cống phẩm, có thể nói là trong lo ngoài loạn. Tây Hạ mua chuộc Lục Minh. Những chuyện này nghĩ đến Tây Hạ đã đều hiểu rồi. Hạ quan lo lắng… Tây Hạ sẽ nhân dịp xâm nhập vào.
Lưu Lăng gật đầu, nhìn về phía Tiên Duyên Nhân Gian, không khỏi chau mày.