Sau khi Lưu Lăng thu hồi vùng đất Ngọc Châu, hắn phái đi hơn hai mươi lộ thám báo, từng giờ từng phút chú ý tới động tĩnh ở Đàn châu. Quân Chu tuy bị đánh tan tác trong trận Ngọc Châu nhưng tuyệt đối chưa thể làm thương tổn đến căn cơ của nó. Tuy rằng đã giết hơn năm vạn quân địch, quân Chu vẫn còn mười lăm vạn đại quân, binh lực vẫn còn hơn xa quân Hán.
Hơn nữa Hậu Chu thực lực hùng hậu, lãnh thổ tới chín mươi tám châu, có bảy mươi hai doanh binh mã, nếu cố sức gom góp thì đại quân có thể đạt tới hơn một trăm vạn. Ngoại trừ quân đội đồn trú phân tán đóng ở các châu phủ ra, số lượng quân mà Hậu Chu có thể thuyên chuyển rơi vào khoảng năm mươi doanh, tương đương với năm mươi vạn đại quân!
Nói cách khác, hiện tại với điều kiệu không động chạm tới căn cơ Chu quốc, Sài Vinh ít nhất còn có thể điều động thêm mười lăm vạn đại quân. Ba mươi vạn hùng binh, Bắc Hán có dốc hết cả quốc lực cũng không xuất ra nổi. Bảy doanh binh mã Phủ Viễn quân phương nam, Kiến Hùng quân phương bắc trên danh nghĩa có được chín doanh, kì thực chỉ có tám doanh. Cộng thêm quân đồn trú tại Đô thành, nếu gom vào một chỗ cũng chưa đến hai mươi vạn.
Nếu Hậu Chu dốc sức đột kích quy mô lớn, xuất động tới năm mươi vạn đại quân không phải là không thể. Mặc dù là như vậy, Hậu Chu vẫn còn hơn hai mươi vạn binh mã. Cho nên, Lưu Lăng tuy rằng nắm trong tay một trận thắng cũng quyết không dám khinh địch. Hiện Phủ Viễn quân có hơn bốn vạn nhân mã, thêm tàn binh Ngọc Châu cũng chưa tới bốn vạn rưỡi. Cho dù cộng thêm Phủ Viễn quân do Trình Nghĩa Hậu dẫn từ Ứng châu tới và quân Hán đang xuôi nam xuống thì khoảng hơn bốn vạn, tổng cộng quân số vào khoảng tám chín vạn.
So với mười lăm vạn đại quân Chu thì vẫn không đủ. Chỉ cần quân Chu không tùy tiện tiến quân, từng bước đánh chắc giữ chắc, Lưu Lăng cũng không thể tìm được thời cơ để tận dụng. Lưu Lăng biết Sài Vinh thông qua tư liệu lịch sử, Sài Vinh là một quân chủ hùng tài đại lược, được tôn vinh là đệ nhất minh quân thời Ngũ Đại.
Nếu không phải người này đoản mệnh, chỉ làm Hoàng Đế không tới sáu năm đã chết bệnh, dựa vào tài năng quân sự và sách lược trị quốc của y, tất sẽ không đến phiên Triệu Khuông Dẫn thống nhất Trung Nguyên. Nói lại, nếu không phải Sài Vinh tạo cho Triệu Khuông Dẫn một căn cơ kiên cố thì Triệu Khuông Dẫn tất phải gian nan vô cùng mới nhất thống được Trung Nguyên, lập ra đế quốc Đại Tống.
Nghĩ đến đây, Lưu Lăng lại thấy buồn bực. Trên lý thuyết Triệu Khuông Dẫn, Tống Thái Tổ tiếng tăm lừng lẫy, vì sao vẫn chưa xuất hiện bước lên vũ đài lịch sử?
Người này có lẽ là một biến số, Lưu Lăng biết dòng chảy lịch sử là không thể nghịch chuyển được. Tống triều được thành lập là chuyện không thể ngăn cản, thực lực một mình Bắc Hán quốc tự bảo vệ mình còn không đủ, huống chi ôm mộng xưng bá thiên hạ? Lúc này Lưu Lăng không có hùng tâm tráng chí nhất thống Trung Nguyên, hắn thầm nghĩ dốc hết năng lực của mình bảo vệ Bắc Hán, bảo vệ sợi dây thân tình hiếm có giữa mình và Nhị ca. Bảo vệ Liễu Mi Nhi, Triệu Đại, Triệu Nhị, Hoa Tam Lang, Quý Thừa Vân, những người quan trọng với hắn là đủ rồi.
Một khi Triệu Khuông Dẫn xuất hiện, có lẽ hắn phải đối mặt với biến cố khó có thể đoán trước.
Ngày thứ ba, không lâu sau khi Lưu Lăng hạ lệnh chém đầu tám ngàn tù binh Hậu Chu, Tiểu Lục Tử công công một đường chạy như bay từ thành Thái Nguyên tới, mang theo bao nhiêu là phong trần mệt mỏi trên thân thể, dưới sự bảo hộ của mười mấy đại nội thị vệ cuối cùng đã tới thành Ngọc Châu. Nhìn dáng vẻ chật vật của bọn họ đủ biết trên đoạn đường này bọn họ đã chịu không ít cay đắng
Kỳ thật là như thế này, xuất phát từ Ứng châu, họ vốn định đi tắt vượt qua đại quân Trình Nghĩa Hậu, tới Ngọc Châu trước một bước để gặp mặt Lưu Lăng, nhưng lại lạc đường. Bọn họ đi vòng vo trong núi rừng nửa ngày mới tìm được đường ra, khiến lộ trình bị trễ nải.
Khi họ đến cửa thành Ngọc Châu, tử thi của tám ngàn tù binh kia còn chưa được xử lý xong xuôi, tám ngàn cái đầu còn chưa bị thiêu hủy. Ngoài cửa thành máu chảy thành sông, cảnh tượng kia có thể dọa chết những ai yếu bóng vía!
Rất không may, lá gan của Tiểu Lục Tử công công thật sự không thể nói là lớn. Nhìn thấy cảnh tượng thảm thiết ngoài cửa thành, phản ứng đầu tiên của Tiểu Lục Tử là nôn mửa. Vốn mấy ngày ăn đói uống khát vậy mà lại hào phóng đến độ phun hết ra ngoài, cuối cùng phun ra cả nước chua khiến cho dạ dày cồn cào khó chịu.
Tuy rằng đại nội thị vệ đều đã nhìn thấy người chết, nhưng cảnh tượng tàn sát tập thể như thế đừng nói nhìn thấy, chỉ nghĩ cũng chưa từng nghĩ tới. Cho nên khi thấy Tiểu Lục Tử nôn mửa như điên, bọn họ ngày bình thường uy phong lẫm lẫm cũng bị kích thích không chịu nổi, đồng loạt phun như mưa.
Khâm sai tới, rất nhanh có người đến nghênh đón vào đại doanh. Lưu Lăng không ở trong thành mà đang ở trong đại doanh Phủ Viễn quân ngoài thành. Mười mấy tướng lĩnh tụ tập quanh đại trướng của hắn, đang thảo luận xem phải ứng đối với thế công kế tiếp của quân địch như thế nào. Lưu Lăng sai người làm một sa bàn lớn, dùng cờ nhỏ màu lam và màu đỏ phân biệt đại diện vị trí quân Chu và quân Hán.
Mười mấy người đều nhìn Lưu Lăng, nghe hắn phân tích tương quan thực lực quân đội hai bên mọi người không ngừng gật đầu, sắc mặt đều hết sức trang nghiêm.
Đang nói thì có thân binh từ phía ngoài tiến vào bẩm báo nói có khâm sai từ thành Thái Nguyên đến đây, chỉ đích danh Lưu Lăng tiếp chỉ.
Nghe nói Nhị ca hắn phái người đến, Lưu Lăng không dám chậm trễ, lĩnh thủ hạ ra ngoài đại trướng nghênh đón, vừa ra khỏi cửa đã thấy Tiểu Lục Tử mặt vàng như nến, trên mặt không còn giọt máu được hai binh sĩ Phủ Viễn quân dìu đỡ đang đi tới. Vốn đại nội thị vệ phải đứng hai hàng hai bên khâm sai uy phong lẫm lẫm cũng cả đám mặt không chút huyết sắc, được người ta dìu đi sang bên cạnh nghỉ ngơi.
Lưu Lăng đoán bọn họ chắc là bị cảnh tượng phía ngoài dọa sợ, trong lòng hiểu rõ, lập tức cười nghênh đón.
– Hóa ra là Tề công công, đi đường xa khổ cực rồi!
Lưu Lăng phân phó nói: – Đi chuẩn bị một thùng nước nóng, lát nữa sau khi Tề công công tuyên chỉ cần ngâm nước nóng nghỉ ngơi một chút.
Lời này của hắn đã động đến chuyện canh cánh trong lòng Tiểu Lục Tử, với những hoạn quan như y, thống khổ lớn nhất chính là mùi khai khó có thể che dấu trên thân thể. Bởi vì một số phần quan trọng đã bị cắt, cho nên lúc tiểu tiện luôn khó có thể khống chế. Do đó trên người luôn mang một mùi khai, nhất là mùa hè lại càng làm cho người khác khó chịu. Ngay cả chính bọn họ cũng không chịu đựng nổi, cho nên mới phải tô son điểm phấn giống như cung nữ, thậm chí tô trét còn dày hơn nhiều.
Liên tục mấy ngày bôn ba, đừng nói tắm rửa, đến cả cơm nóng còn không có mà ăn, lúc này mùi trên ngươi y quả thật rất nồng, hai binh sĩ Phủ Viễn quân đều cau mày nhưng không dám biểu lộ ra ngoài mà thôi.
Lưu Lăng đi đến bên cạnh, trang nghiêm nói: – Vi thần Lưu Lăng, quỳ tiếp thánh chỉ.
Mười mấy tướng lĩnh sau lưng hắn cũng quỳ xuống, Tiểu Lục Tử vội vàng nói: – Vương gia mau đứng lên, Bệ hạ sớm có ý chỉ, Vương gia không cần quỳ nghe tuyên chỉ.
Y thoát khỏi hai người dìu đỡ, thân hình suy yếu phủ phục xuống.
– Tiểu Lục Tử thỉnh an Vương gia, nô tài thật sự không kiên trì nổi, xin Vương gia chớ trách nô tài thất lễ.
Y vừa ngồi sụp xuống, một luồng mùi vị như mùi của tê giác ở vườn bách thú Bắc Kinh xông thẳng vào mũi Lưu Lăng. Kiếp trước, phụ thân mẫu thân từng đẩy xe lăn dẫn hắn đến vườn bách thú Bắc Kinh thăm quan, năm ấy hắn chỉ mới tám tuổi, trí nhớ khắc sâu nhất chính là mùi khai ngửi thấy khi đi qua chuồng tê giác.