Ánh sáng mờ mờ, giống như ánh sáng của đèn cấp cứu chúng tôi nhìn thấy lúc trước, không biết nơi phát ra ánh sáng là nơi nào.
Bây giờ đành nhắm mắt làm liều thôi, chỉ cần thoát khỏi nơi này, dù có phải đi qua dầu sôi lửa bỏng, tám tầng địa ngục, chúng tôi cũng phải đi.
Ba nhánh trong đường hầm rõ ràng đều dẫn tới một địa điểm, khỏi phải do dự nhiều, chúng tôi quyết định tiếp tục đi sâu vào trong, leo lên trên mười mấy mét nữa thì tới đỉnh. Một góc trên đỉnh có cửa thông gió được chắn bằng tấm lưới sắt, nhưng băng đã phủ kín mặt dưới, các mắt cáo đều bị bịt kín, tạo thành một tảng băng, ánh sáng chiếu ra từ sau lớp băng đó, có điều tình hình cụ thể phía sau tấm lưới như thế nào thì chúng tôi không nhìn rõ được.
Mã Tại Hải bỏ hết đạn trong súng ra, rồi dùng báng súng đập vào tấm lưới, nhưng vị trí chỗ này quá hẹp nên không thể dùng hết sức được, cậu ta đập hồi lâu mới đẩy được lớp lưới sắt ra. Gió lạnh từ đằng sau thổi thốc tới, cường độ mạnh đến nỗi khiến tôi suýt nữa ngạt thở.
Tôi vội vàng quay đầu hít một hơi sau đó lấy áo khoác bịt mũi. Tôi ngó ra ngoài nhìn, nhưng chỉ thấy một màn không gian mờ ảo tăm tối, không có gì ngoài đó.
Ba người chúng tôi nhìn nhau rồi bỗng nhiên hiểu ra vấn đề. Bên ngoài kia không phải là căn phòng gì, mà nó chính là khoảng không gian rộng lớn, sâu hút nằm phía ngoài con đập, từ đây nhìn ra, chỉ thấy một không gian vô tận, chỉ có những cơn gió mạnh từ nơi nào thổi tới, táp vào mặt chúng tôi. Ống thông gió này chính là nơi thông ra ngoài phòng. Càng nghĩ tôi càng thấy lý giải này hết sức hợp lý.
Sương mù bên ngoài cũng đã tan hết, tôi chiếu đèn ra xem nhưng không nhìn thấy gì cả. Mã Tại Hải bảo để cậu ta thò đầu ra nhìn thử, chúng tôi liền túm chặt áo khoác của cậu ấy lại, để cậu ấy thò đầu ra ngoài, nhưng vừa thò ra, thì một cơn gió mạnh bất ngờ ào tới, giận dữ thổi tung áo cậu ta lên, người cậu ta nhoài ra ngoài như thể đang bị ai đó kéo về hướng đó.
Cậu ta sợ hết hồn, chúng tôi vội vàng giữ chặt lại, cậu ấy mới không bị rơi xuống. Vương Tứ Xuyên gắt: “Mau lên, nhìn xem có cái gì không!”
Cậu ta nằm rạp trên hốc thông gió, cầm đèn pin chiếu một lượt xem xét tình hình bên ngoài, sau đó chúng tôi kéo cậu ấy vào. Mã Tại Hải nói: “Đây đã là tầng cuối của con đập, cách chỗ chúng ta đang đứng chừng chục mét là đá núi, bên cạnh có một cái cầu thang bằng sắt có thể leo xuống.”
Tôi hỏi cậu ta có thấy dấu vết gì của nhóm anh Miêu không. Cậu ta đáp không nhìn rõ, bên trên còn thấy chiếc đèn halogen mà lần trước cậu ta đã bật, nhưng chỗ đó dường như cách đây rất xa, rõ ràng nơi này chính là phần đáy của con đập, toàn bộ đều là tầng giao thoa giữa đá nham thạch với bê tông cốt thép, có chiếu đèn cũng không thấy gì.
Vương Tứ Xuyên hỏi Mã Tại Hải liệu có thể bám theo thang sắt để leo lên trên không. Cậu ta đáp, bên ngoài hơi tối, vả lại gió rất mạnh, còn mạnh hơn cả lúc chúng tôi đứng trên con đập, còn cái thang đã bị gỉ sét hết cả, nhỡ không may đang trèo mà bị gãy một cái thì khỏi phải nói đến chuyện tiếp theo.Tuy nhiên, tôi lại thấy nguy hiểm này đáng để liều một phen, chủ yếu bởi vì nhiệt độ ở trong này quá lạnh, gió thổi ở bên ngoài vào còn ấm hơn cả nhiệt độ ở trong này. Nếu chúng tôi cứ tiếp tục lần theo dây cáp điện để đi xuống thì không biết còn chịu đựng được bao lâu nữa. Ít nhất lúc này cũng nhen nhóm được một tia hi vọng sống. Hơn nữa, đâu phải tất cả các thang sắt đều bị hỏng, không chịu được sức nặng, đây là thang sắt dùng loại thép to cỡ bằng ngón tay cái, rất chắc chắn, chuyện của đội phó lúc trước chỉ là sự cố ngẫu nhiên mà thôi. Chỉ cần cẩn thận một chút lúc trèo, chắc sẽ không xảy ra chuyện gì.
Ba người chúng tôi hội ý, Vương Tứ Xuyên bảo: “Thôi đừng quyết định vội, cứ thở xem sao đã, nếu leo được thì lúc đó chúng ta sẽ leo.”
Vậy là, Mã Tại Hải xoa hai tay vào nhau cho ấm, sau đó bám vào thanh sắt đu ra bên ngoài, áo khoác của cậu ta bị gió thổi bay phần phật, cậu ta gắng sức nép vào thành bê tông, rồi hét gọi chúng tôi. Khoảng cách ngắn như vậy, mà chúng tôi không hề nghe thấy gì, cậu ta đành dùng tay ra dấu cho chúng tôi leo theo.
Tôi là người leo thứ hai, lúc vừa chui ra khỏi lỗ thông gió, nói thật, tôi cũng thấy kinh hãi, bên ngoài kia giống như vũ trụ bao la, chẳng có một thứ gì, bên dưới thì sâu thăm thẳm, ngộ nhỡ ngã xuống, cũng chẳng biết có đáy hay không, thứ duy nhất cảm nhận được là tiếng gió. Tôi nắm chắc vào các thanh sắt, người vừa trèo lên thang thì cảm thấy như bị bay lên, nhưng sau đó tôi đã thích ứng kịp thời, vội vàng điều chỉnh động tác, nép sát người vào bức tường, rồi mới bắt đầu leo lên.
Đến lượt Vương Tứ Xuyên, tôi chiếu đèn pin chiếu xem tình hình cậu ta leo thế nào, cậu ta nặng hơn tôi, nên nhìn động tác khá chắc chắn.
Sau khi đã đứng vững trên thang, tôi bắt đầu chiếu đèn quan sát xung quanh, một bên là vách tường của con đập, ánh đèn trượt đi trên bức tường. Nó chỉ lóe lên được ở một khoảng cách rất ngắn, rồi bị bóng đêm nuốt chửng ở đầu xa. Mặt bức tường của con đập khá thô ráp, xù xì, phía ngoài phủ một lớp gì đó đen đen, khá giống với màu của lớp sương mù. Thang sắt cũng được phủ lớp nhũ đen ấy, tôi giơ tay nhìn, thấy đó là lớp bụi bàng bạc, vừa giống một dạng dịch lỏng, lại vừa không phải, tôi vội chùi tay vào áo khoác, rồi kéo cánh tay xuống để bảo vệ hai bàn tay, bụng nghĩ có quỷ mới biết thứ này có độc hay không.
Còn bên kia thì khỏi phải nói, chẳng có gì hết. Tôi cảm giác như mình đang đứng ở giữa lằn ranh của thế giới.
Lúc đó, tôi hơi hối hận, không biết để leo lên được bên trên kia, tôi còn phải kiên trì trong trạng thái này bao lâu nữa? Trải nghiệm ấy quả thực không phải một kỉ niệm đẹp.
Loại thang sắt này có thể dùng để leo lên hoặc leo xuống, chiếu đèn xuống bên dưới tôi thấy phía xa cũng có một cái thang nữa, chứ không phải chỉ có một thang ở vị trí mà chúng tôi đang trèo, nhưng vị trí giữa hai thang cách nhau khá xa, giữa chúng có các thanh sắt nhô ra, dùng để đạp chân lên, phía trên gắn móc câu dùng để bám tay vào, rõ ràng các thang dây và những thang sắt gắn trên tường tạo thành hệ thống giá đỡ ở phía ngoài con đập. Có lẽ đây là đường dự phòng được sử dụng trong lúc thi công hoặc tu sửa con đập.
Nhưng nghĩ lại tôi thấy, nơi này đã là tầng dưới cùng của con đập, chắc họ không cần phải đi kiểm tra gì nữa, vậy “con đường” này dùng để làm gì?
Sau khi nhìn thấy Vương Tứ Xuyên đứng vững trên thang, Mã Tại Hải liền dùng miệng giữ đèn pin và bắt đầu leo lên trên, tôi và Vương Tứ Xuyên cũng leo ngay theo.
Những cơn gió mạnh thổi dồn dập khiến chúng tôi không thể suy nghĩ gì thêm, đến cả việc thở cũng phải tìm góc độ hợp lý mà hít thở, trong đầu không có khái niệm phải đếm xem mình đã leo lên được mấy bước hoặc đã đi được bao xa, cảm giác của chúng tôi lúc đó thật khó mà hình dung nổi. Có thể nói, nếu rơi vào hoàn cảnh đó, bạn không biết phải làm gì ngoài im lặng, cũng không thấy hoảng sợ nữa, cảm xúc thật kì lạ. Ngoảnh đầu nhìn ra chỉ thấy bóng tối miên man, tôi chợt cảm thấy cảm giác lúc này có thể gói gọn trong một chữ “ngộ”. Cơ thể tôi, tinh thần tôi dường như đã hiểu ra điều gì đó, một điều đến từ thế giới huyền bí, mơ hồ.
Đang lúc tôi hoài nghi, nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, có lẽ lòng kiên định của tôi sẽ thay đổi mất, thì cái ủng của Mã Tại Hải đã cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi.
Tôi ngẩng lên, hóa ra cậu ta dừng lại đột ngột, khiến đầu của tôi đập phải gót ủng của cậu ta.
Tôi đoán chắc cậu ta đã phát hiện ra điều gì đó, nên liền trèo qua ngó xem, thì ra phía xa xa, bên trái của con đập có một vật gì đó to tướng đang nằm chình ình ở đó.
Vật đó cách chúng tôi chừng hai chục mét, dường như là một khối bê tông cốt thép, có điều nó được làm rất thô sơ, xung quanh bọc thép, kết cấu phức tạp, quan sát kĩ hơn thì thấy nó giống như một con nhím đầy lông nhọn bám vào thành đập, trong đó những thanh thép cắm xung quanh nó giống như những chiếc lông nhím. Vật thể đó rất to, nom giống như một tòa nhà ba tầng vậy.
Nếu so với cả con đập thì nó không phải một điểm nổi bật bởi nó không có những lớp đá bắt mắt ở bên ngoài, nhưng từ góc độ dưới này nhìn lên, thì nó là một vật to lớn khác thường.
Có một con đường làm bằng những thanh sắt bắt từ chỗ chúng tôi đến vật thể ấy, nên chúng tôi hoàn toàn có thể trèo đến chỗ đó nếu muốn.
Mã Tại Hải quan sát và thầm ước lượng một lát, rồi bắt đầu leo lên các thanh sắt bắc ngang, từ từ treo sang chỗ đó. Tôi vốn là người nhát gan, thần kinh vận động lại kém phát triển nên vừa nhìn thấy cậu ta leo đi thì cuống cả lên, tôi vội vàng trèo đến chỗ cậu ta vừa đứng, cuống quýt hỏi cậu ta xem giờ nên làm gì. Cậu ta quay lại nói to, nhưng âm thanh bị gió bạt đi nghe không rõ, tôi chỉ nghe thấy hình như cậu ta bảo: “Đó chính là cái ăng ten!”
Tôi gào lên hỏi cậu ta quan tâm tới nó làm gì, bây giờ chúng ta phải tìm cách thoát ra khỏi chỗ này trước đã. Thế nhưng cậu ta dường như có ý đồ gì đó, bảo tôi cứ đứng đợi, cậu ta sẽ ra chỗ đó xem thế nào.
Vương Tứ Xuyên đứng bên dưới vỗ vào chân tôi, hỏi trên đó có chuyện gì. Tôi nghĩ thầm biết trả lời thế nào đây, cậu lính này đúng là vô tổ chức, vô kỉ luật. Vừa di chuyển vừa ngẫm nghĩ, không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào tự nhiên tôi cũng trèo ra chỗ Mã Tại Hải.
Từng trận gió mạnh táp vào mặt khi tôi di chuyển về phía đó, khiến tôi cảm giác sắp đứng không vững, tôi thấy Mã Tại Hải khó khăn lắm mới sang được hẳn bên đó, còn tôi mới đi được nửa đường. Bỗng một trận gió mạnh thổi tới, ép sát tôi vào vách đập, tôi vội nhắm mắt nép vào đó để tránh trận gió, sau đó ngoảnh sang nhìn Mã Tại Hải, nhưng phát hiện cậu ta bỗng nhiên biến mất.
Tôi giật thót mình, cứ ngỡ cậu đã rơi xuống vực, nhưng tôi bỗng nhìn thấy cậu ta đang vắt vẻo trên một thanh thép bên dưới “con nhím” chừng sáu bảy mét, chắc lúc nãy cơn gió mạnh thổi đến bất ngờ, cậu ấy không bám cẩn thận nên bị ngã.
Tôi giơ tay ra hiệu hỏi xem cậu ấy có bị thương không, nhưng không thấy cậu ta giơ tay vẫy lại, vì tay chân cậu ấy đang bận bám chặt vào thanh thép, có lẽ tay của cậu ấy bị thương, nên không còn sức bám nữa, leo lên được mấy bước lại bị tuột xuống.
Tôi vội đi qua chỗ đó, miệng liên tục hét gọi Mã Tại Hải dừng lại. Tôi mò đến nơi, định thò tay ra kéo cậu ta lên nhưng nhìn kĩ tôi mới hiểu tại sao khi nãy cậu ta lại bị rơi xuống. Hóa ra vị trí này các chỗ những thanh thép chìa ra trên mình “con nhím” một khoảng cách khá xa, tôi cố hết sức, căng hết cánh tay ra, nhưng để nắm được thanh sắt kia cần phải dũng cảm và thực sự rất khỏe. Tôi vội rút tay về, chỉnh lại tư thế của mình, rồi lại thò tay ra tiếp nhưng vẫn không thể chạm tới. Tôi thầm chửi bọn Nhật đúng là đồ tiết kiệm không phải lối, sao không cắm thêm cọc sắt vào đoạn này.
Vương Tứ Xuyên leo tới nơi thì cũng kiệt sức. Tôi thu người về, hít một hơi lạnh đầy lòng ngực, rồi cố hết sức lao người xuống một lần nữa, tôi giữ người mình bám chặt vào bức tường, nhưng cánh tay vẫn chỉ chới với giữa không trung.
Trải nghiệm này đúng là nguy hiểm hết chỗ nói, người đầm đìa mồ hôi, tôi thầm nghĩ, nếu lúc này mà có cơn gió to như lúc nãy thổi tới thì mình nguy là cái chắc.
Tôi lại tiếp tục giẫm chân vào một thanh sắt, bước sang bên kia, sau khi giữ thăng bằng, tôi leo xuống dưới, túm được Mã Tại Hải. Vừa nắm được tay cậu ta, tôi liền quát to: “Cậu mò ra đây làm gì?”. Cậu ta nắm lấy tay tôi, gồng mình lên, bước mấy bước nữa mới giữ được thăng bằng, rồi thở hổn hển đáp: “Ăng ten, chỗ này có một cái ăng ten.”
Tôi nhìn những thanh thép chìa ra ngoài, nhận ra những thanh thép ở đây khác hẳn những thanh thép tôi thấy trên đường đi, những thanh thép này mỏng hơn và không bị hoen rỉ. Tôi hơi giật mình, nó to và chia ra nhiều phần thế này, xem ra chức năng thu phát của nó rất mạnh, nhưng dẫu vậy thì cũng đâu đáng để Mã Tại Hải liều mạng bò ra tận ngoài này.
Tôi quát: “Ăng ten thì mặc xác ăng ten, đâu nhất thiết phải bò ra đây?”
Nhưng cậu ta nhìn tôi cười rồi lắc đầu, dường như cậu ta không biết phải giải thích thế nào. Không ngờ, cậu ấy kéo khẩu súng đang đeo sau lưng ra, túm lấy báng súng, chìa nó sang phía tôi, rồi nói: “Xin lỗi anh Ngô, lần này tôi đã làm anh giật mình.”