Tôi thấy bình thản rõ rệt khi rời văn phòng ra đứng trước cửa thang máy. Sau bốn ngày chờ đợi cuộc hẹn, có lẽ bao nhiêu âu lo đều đã đem ra xài hết cả rồi.
Tốt.
“Mr. Carlyle?”
Đến giọng nói đó còn không khiến tôi bị giật mình. “Gì thế, Riley?” Tôi dựng ngược cổ áo, chuẩn bị chống chọi với thời tiết bên ngoài.
“Anh đi đâu đấy?”
“Hẹn với bác sĩ.” Tôi lơ đãng trả lời, cài cái khuy cuối cùng.
“Anh… Anh vẫn khỏe chứ?”
Bị bất ngờ vì câu hỏi khẽ, tôi ngước lên. Thân thể tôi cứng đơ khi nhìn vào cặp mắt màu nâu lục. “Khỏe. Chỉ kiểm tra định kỳ thôi.”
Cậu ta chống cánh tay lên bức tường bên cạnh và cúi đầu. “Thế thì được.”
Trông có vẻ như cậu ta thật lòng quan tâm. Cảm giác như cậu ta thật lòng quan tâm, và một nụ cười nhẹ thoáng qua môi tôi.
Cậu ta há miệng, rồi nhe răng cười. “Lỡ như tôi định hỏi anh về những thông số mới nhất thì sao?”
Tiếng ồn ào trong căn phòng nhạt đi khi chất giọng của cậu ta tràn qua tôi. Đó là một cảm giác kỳ quái, giống như khi tôi…
Khi tôi nghiên cứu các con số.
Cố tập trung vào câu hỏi, tôi chọn câu trả lời chuẩn nhất có thể. “Melanie là nhân viên kỳ cựu thứ hai trong đội—cô ấy sẽ giúp cậu bất cứ thứ gì cần. Và cậu còn có thể hỏi Greg Morris. Anh ta đứng đầu phòng hợp tác quốc tế trước khi tôi vào công ty.”
Lông mày cậu ta nhíu lại, nhưng cửa thang máy đã mở, và tôi sắp hết thời gian. “Chắc chắn cậu có thể giải quyết mọi chuyện mà không cần tôi trong vài tiếng đồng hồ.” Tôi dừng lại khi bước qua cánh cửa. “Nhưng nếu mà văn phòng New York gọi, bảo họ tôi sẽ quay lại ngay rồi sẽ đích thân giải quyết vấn đề của họ.”
Vết nhăn biến mất khi cậu ta đứng thẳng người dậy. “Tôi có thể lo vụ đó.”
Cậu ta tỏ ra nóng lòng muốn giúp, và nhìn thấy bằng chứng Riley Jameson tự hào về công việc của mình khiến tôi nhoẻn miệng cười. “Văn phòng New York là một bong bóng tách biệt của một loại tâm thần đặc biệt. Đời nào tôi lại đẩy nhân viên của mình vào đó chứ.” Tôi nháy mắt. “Dù sao cũng cám ơn cậu đã tình nguyện lao mình ra đỡ nhát kiếm cho tôi.”
Cửa đóng lại khi tiếng cười trầm thấp của Riley tràn ngập trong tôi.
Có cần phải đau đến mức này không? Tôi muốn ngửa đầu tì vào thành thang máy và nhắm mắt lại, nhưng tôi không đứng đây một mình, và cũng chẳng muốn nghe người khác hỏi thăm xem tôi có sao không.
Nhưng… tôi có sao không?
Chỗ bị tiêm đau nhức. Buồn nôn. Đau đầu. Đều là các triệu chứng thường gặp. Đều là triệu chứng tạm thời.
Vậy nên không cần lo lắng. Tôi vẫn ổn.
Thang máy mở ra, và tôi bước vào tầng của mình. Có gì đó lành lạnh chạm vào tai tôi, và tôi luồn tay qua tóc, cố rũ bỏ những bông tuyết cuối cùng còn cứng đầu bám dính vào mình. Tôi thấy như cục cứt. Tự hỏi liệu có thể ngủ gật trong văn phòng một lát được không.
Vào những ngày cuối năm như thế này á? Ờ, phải rồi. Chuồn được ra ngoài để mà đi tiêm còn là may.
Một cử động trước mặt thu hút ánh mắt tôi, và tôi quay đầu nhìn Riley vẫy tôi lại gần.
Buồn cười nhỉ? Giờ thì ở trong tình thế ‘sự đã rồi’, tôi thấy thoải mái hơn. Hay tại cách cậu ta hỏi trước khi tôi đi tiêm cũng nên. Thậm chí tôi còn nghĩ tới cậu ta lúc ngồi trong phòng chờ mà không thấy bất an hay run rẩy.
Cứ như thể cậu ta có mặt ở ngay chỗ đó, khoe cái nụ-cười-triệu-đô để làm an lòng tôi.
Khóe miệng tôi nhếch lên khi tiến tới bàn cậu ta. “Mới đi có một tiếng rưỡi thôi mà. Đừng bảo là cậu phá banh mọi thứ rồi nhé?”
Cậu ta ngừng bặt, rồi phá lên cười. “Không, tôi chỉ muốn cho anh biết là tôi đã hoàn thành bản phân tích thống kê anh cần thôi.”
Đầu tôi nhức binh binh, nhưng vẫn cố nặn ra một nụ cười và liếc nhìn màn hình của cậu ta. “Cám ơn. Gửi bản copy cho tôi, tôi sẽ xem xét trong văn phòng.”
Bàn tay nắm chuột khựng lại. “À. Được thôi.”
Vừa định rời đi thì cậu ta nắm lấy cánh tay tôi. Cơn đau buốt lan ra từ vết tiêm khiến tôi rít lên.
Riley lập tức buông ra, và tôi nhìn lên đúng lúc cậu ta toét miệng.
“Anh tiêm phòng cúm rồi, phải không?”
Qua khóe mắt, tôi thấy mọi người ngước mắt khỏi bàn họ. “Tôi…”
“Đúng rồi.” Cậu ta nhảy dựng lên, khiến thế giới của tôi chợt trở nên nhỏ xíu, nhanh đến mức tôi loạng choạng lùi lại. “Nhìn mắt anh là biết mà.”
Tấm ván ngăn bàn giúp tôi khỏi ngã dập mông, chỉ tội nó cũng làm tôi kẹt cứng. “Chẳng phải việc của cậu, nhưng đúng là thế.” Mặc cho cơn khủng hoảng muốn trào ra bề mặt, tôi vẫn nói đều đặn. “Hôm nay tôi vừa tiêm chủng.”
Cậu ta tóm lấy tấm ván thấp ở hai bên người tôi, nhốt tôi bằng cơ thể của mình. “Liệu anh có to lên như tôi không nhỉ?”
Mọi người xung quanh đều đang quan sát, mà tôi thì chẳng muốn ai biết mình vừa tiêm, vì có nhiều khả năng tôi sẽ không cao thêm lắm. Giờ thì tôi phải ra vẻ bình thản dù thâm tâm chẳng có lấy chút xíu cảm giác đó. “Chắc không đâu. Nhưng đang là mùa cúm mà, và gần đây bận rộn quá nên tôi chưa kịp dùng vắc-xin.”
Riley vẫn không cử động, kiểu cười ngạo nghễ mà vài giây trước tôi còn tưởng là đầy an ủi đang đặt trên miệng cậu ta. “Anh cư xử như thể đếch quan tâm đến chuyện lớn lên vậy, nhưng cảm giác đó vui lắm.” Cánh tay bao quanh tôi nhấp nhô, truyền một loạt phản ứng khắp thân thể cậu ta. “Ít nhất, với tôi là vậy.”
Ánh mắt tôi rớt xuống cơ bụng cậu ta. Hôm nay không có áo thun—và mấy cái khuy trông như sắp đứt phựt ra tới nơi. Ngay cả hai đầu ngực cũng nổi lên lồ lộ trên nền vải.
“Nhìn tôi ngon lành mà, nhỉ?” Cậu ta thì thầm.
Tôi nheo mắt nhìn lên. “Tôi là sếp của cậu đấy, Riley, và cậu đang đi quá đà. Tôi ghét phải ghi lỗi cậu vì chuyện này lắm.”
Cậu ta giật tay về, nét mặt đanh lại khi nhìn tôi.
Mẹ kiếp, chắc tôi sẽ thấy hối hận, nhưng nếu đủ may mắn, chỉ vài tuần nữa là tôi hạ cánh sang phòng khác rồi.
Giả vờ phớt lờ ánh mắt giận dữ của Riley, tôi đi vào văn phòng. Cơn đau đang dộng bình bịch trong đầu tôi mạnh lên khiến tôi phải ngồi xuống bàn và lấy tay xoa mặt. Tôi chưa từng có ý định ở phòng hợp tác quốc tế cả đời. Dù bên chi phí phát triển cũng chỉ là một bước ngang. Nó sẽ đẩy lùi kế hoạch sự nghiệp của tôi một thời gian, nhưng lại là điều tốt nhất cho tôi lúc này.
Nói vậy chứ, tôi vẫn sẽ nhớ phòng hợp tác quốc tế. Nhớ con người. Nhớ những thử thách. Và khi tôi nghĩ đến tiếng cười trầm trầm đã luẩn quẩn bên tôi trong phòng khám, tôi nhận ra rằng bất kể bao nhiêu khó khăn, mối quan hệ công việc giữa chúng tôi vẫn liên tục phát triển… Có lẽ tôi cũng sẽ nhớ Riley.
Một phần tư inch trên sáu feet.
Tôi nhìn chằm chằm đường vạch tôi đánh dấu trên tường. Cần khẳng định lại, tôi dùng thước đo một lần nữa khoảng cách từ sàn lên. Cảm giác nhẹ nhõm suýt làm tôi sụm gối.
Đã ba ngày kể từ khi tiêm, và cơn buồn nôn đã hết. Đau đầu cũng qua. Thậm chí cơn đau trên cánh tay phải cũng mất tiêu. Sáng hôm nay tôi thấy tươi tắn và đầy năng lượng, sẵn sàng đón nhận bất cứ thứ gì mà đời quẳng vào mặt.
Tôi cất thước đi, rồi nhảy vào dưới vòi sen và bôi xà bông khắp người. Riley bảo cảm giác lớn lên rất sướng, nhưng về mặt thể chất thì tôi không thấy khác biệt gì nhiều. Greg nói nó khá thú vị, còn tôi thì nghĩ trải nghiệm của bản thân chắc cũng nằm đâu đó quanh mấy từ ấy.
Nhắc đến thú vị… Bất kể sự thật là tôi biết còn quá sớm để khẳng định, nhưng tôi có thể thề là cái phòng tắm trông nhỏ hơn một tí ti.
Phải cao thêm bao nhiêu inch mới nhận ra sự khác biệt nhỉ? Ba? Năm? Cục xà bông dừng lại trên ngực tôi.
Sáu feet năm. Thế thì tuyệt đến mức nào?
Cái mớ ảo tưởng này sắp làm tôi muộn giờ, nên tôi vội vã làm việc vệ sinh buổi sáng rồi ba chân bốn cẳng phi tới công ty. Tôi không thể nhịn cười, chào hỏi tất cả những người mình nhìn thấy. Cả Riley.
Cậu ta rời mắt khỏi bảng tin để nhìn tôi, và nhếch mép.
Lẽ nào cậu ta nhận thấy tôi đã cao hơn?
Suy nghĩ đó đáng ra phải khiến tôi thấy kiêu căng, thay vào đó, tôi đỏ mặt. Không muốn rực lên như tôm luộc, tôi lẩn vào văn phòng, bật laptop và máy pha cà phê. Kiểm tra hộp thư thoại, lắng nghe những vấn đề hàng ngày về dòng tiền mặt, cũng như lời mời ăn tối cùng những trưởng phòng khác vào tuần tới. Tôi ghi lại những gì cần đích thân giải quyết rồi gọi Greg để báo tôi sẽ tham gia. Chỉ trong vài phút, một phần tư inch cao thêm đã lạc mất khỏi tâm trí tôi.
Đến cuối ngày, nó lại lừng lững hiện trở về.
Đây là lần thứ ba tôi phải kéo tay áo lên, nhìn đăm đăm vào lớp vải đã tụt xuống quá cổ tay tôi. Tôi đặt may bộ vét này vừa khít người cơ mà, làm sao lại xuống sâu như thế được? Và nếu tôi đang phát triển, chúng sẽ phải co lên chứ?
Quần tôi cũng đang giở chứng. Rất khó nhận ra, nhưng nó đã phủ qua cả giày của tôi, gần quét sàn tới nơi. Không đúng!
Tôi mở ngăn kéo bàn, lục lọi đống đồ đặt ở trong. Không có thước cuộn, chỉ có thước kẻ. Dùng được. Tôi không thể đợi đến khi về nhà mới kiểm tra.
Vớ một cái bút chỉ, tôi đứng dựa lưng vào tường. Tay tôi run rẩy quá mức, nên tôi phải cố giữ yên khi đặt cái thước lên trên đầu và kẻ một đường. Tôi quay lại và nhìn vết đánh dấu, như thể chỉ nhìn thôi là thấy điều tôi cần biết.
Có lẽ tôi đã nhầm. Có lẽ tôi nên về nhà trước.
Tôi quỳ xuống và đặt thước vào tường. Đang định lật thước thì tôi nhận ra là mình đặt nó trên mép thảm, không chạm sàn.
Mẹ kiếp. Sáng nay tôi có làm vậy không?
Tôi ấn thước xuống sàn. Lật qua lật lại, tôi đứng dậy và không ngừng tay cho tới khi chạm vạch. Nghẹt thở khi cộng số chiều cao của mình.
Năm feet mười một rưỡi.
Không… chắc tôi trượt mất chỗ nào đó.
Tôi lại quỳ.
Lần này đo cẩn thận hơn, di chuyển chậm chạp hơn. Kết quả vẫn vậy. Tôi tì lưng vào tường, kẻ một đường mới để kiểm tra lại. Tôi quay người nhìn chăm chú. Y xì vạch kẻ trước đó.
Hay tại lật thước làm lệch kết quả?
Tôi lại đo, lần này lấy bút chì đánh dấu đầu thước kẻ, rồi lê đít thước lên chạm dấu.
Lần này. Tôi lại vạch. Lần này sẽ tròn sáu feet.
Nhưng vẫn không được. Kết quả là năm feet mười một rưỡi.
Tôi gục đầu lên tường, và bật ra một tràng cười ướt át, nhẹ tênh. “Một phần hai trăm khả năng.” Tôi thì thầm, cuộn tay thành nắm đấm. “Và mình trúng độc đắc. Lẽ ra nên mua vé số cào.”
Tôi cười thêm một lúc, không thể mường tượng nổi tương lai của mình. Tôi tự nhủ, ít nhất hôm nay cũng là cuối tuần. Vẫn còn thời gian để gặm nhấm phạm vi ảnh hưởng tối đa của hành động mình làm.
“Ơn trời hôm nay là thứ Sáu.” Tôi lẩm bẩm, đẩy mình đứng thẳng dậy rồi thả cái thước vào thùng rác. Tôi lấy áo khoác, thu dọn laptop, tắt máy pha cà phê. Nín một tiếng khúc khích, tôi tắt đèn và đi về nhà.
Chẳng cười với ai khi rời khỏi.
Ba inch. Trong một tuần.
Thật phi thường. Nếu không phải chuyện xảy ra với tôi.
Tôi ngồi ở góc phòng ngủ, ôm đầu gối vào sát ngực và nhìn chằm chằm các vết vạch trên tường. Tôi tự ép mình phải theo dõi chiều cao bị co lại của mình—tự đo vài tiếng một lần—nên bây giờ tôi có một series đường kẻ thấp dần trên bức tường một thời trắng bóc của tôi.
Ba inch. Nghĩa là bây giờ tôi còn năm feet chín. Kể ra cũng không tệ nếu bỏ qua thực tế rằng chiều cao trung bình của đàn ông Mĩ đã tăng từ năm feet chín lên tròn sáu feet vào năm ngoái. Bây giờ tôi thậm chí còn chẳng đến mức trung bình; tụt xuống dưới rồi.
Tôi ôm đầu gối chặt hơn.
Quần áo đã không còn chuẩn nữa. Cái gì cũng vừa rộng vừa dài. Khi mặc, tôi nghĩ mình có thể cảm thấy cơ thể đang teo lại—da dẻ trượt trên lớp vải, tay co ngắn, chân cũng thế. Tất cả những gì tôi còn chấp nhận mặc lên người chỉ là đống quần đùi, tạ ơn trời là vẫn vừa, dù cảm giác có hơi kỳ cục.
Bảy giờ sáng mai tôi phải đi làm. Đến bảy giờ một phút, những người ở cùng tầng sẽ biết chuyện đã xảy ra cho tôi. Đến chiều, những người cùng tòa nhà sẽ nghe thấy thông tin.
Liệu họ có đến soi mói tôi không? Liệu họ có bu vào văn phòng tôi như cách họ tụ tập quanh bàn Riley, hỏi xem tôi thấy thế nào, bàn tán rằng họ chẳng thể tưởng tượng nổi nếu ở trong hoàn cảnh của tôi không?
Trán tôi tựa lên hai đầu gối. Làm thế nào đây? Báo ốm chăng? Xin nghỉ chăng? Hay gọi cấp trên và đăng ký phương án liên lạc qua vô tuyến, làm việc ở nhà? Tôi luồn tay vào tóc, nắm chặt ngón tay và kéo mạnh. Một tiếng kêu đau đớn tức giận bật ra.
Làm thế nào đây? Tôi chẳng có ai để hỏi, chẳng có ai giúp đỡ. Thế nào mới đúng?
Tôi ngẩng đầu, đăm đăm nhìn đống vạch. Chẳng có ai để hỏi cũng không sao. Tôi biết thế nào là đúng.
Dữ liệu bước đầu của những thống kê cuối năm đang nhấn chìm phòng tôi. Cả đội cần tôi. Tôi phải đi làm.
Loạng choạng đứng dậy, tôi lao tới tủ quần áo. Giờ này thì các cửa hàng đều đóng rồi—không kịp kiếm một bộ vét cho vừa người. Tôi lục đống đồ treo trên mắc, qua đám áo khoác mà mới chỉ ngày trước còn khiến tôi vô cùng tự hào. Lôi ra mọt cái quần bình thường và mặc vào, không thèm để tâm đến hai ống quần túm thành một mớ dưới chân và tìm phục sức. Sau khi kiếm được một cái thắt lưng, tôi luồn qua các con đỉa vả thắt nút trong cùng. Tôi mở ngăn kéo và thấy cái áo phông xanh dương—thứ tôi đã luôn muốn mặc—và giựt đứt giá trước khi chui vào.
Sau khi hít vài hơi thật sâu, tôi quay lại để soi vào cái gương lớn. Cái áo trông… không đến nỗi tệ. Tay áo cộc kéo xuống tới gần khuỷu tay, và gấu áo thì chỉ trùm mông một tẹo. Tôi muốn tạo hình tượng thế này cũng là điều dễ hiểu. Có điều, cái quần thì…
Rắc rối rồi đây.
Tôi quỳ một chân, xắn gấu quần vào trong. Đổi chân, tôi làm nốt bên kia rồi đứng dậy.
Cái áo che đi phần dúm dó quanh hông. Ống quần chấp nhận được, chỉ cần tôi tìm được cách giữ chúng như thế.
Báo ốm ngày mai đi. Lấy thời gian mua quần áo.
Không. Nếu ngày mai tôi không đến, chắc tôi sẽ chẳng bao giờ đến được.
Nhưng không có kim chỉ. Thứ hữu dụng duy nhất trong căn hộ chỉ có cái laptop và vài cái kẹp giấy. Với lại tôi không phải MacGyver. Tôi khựng lại, nhìn về hướng cửa trước.
Bà cụ dễ tính ở đối diện có đủ thứ. Và bà ấy thích tôi, lúc nào cũng nướng cho tôi cả đống bánh và chia đồ thừa của Lễ Tạ Ơn.
Ngập ngừng, không chắc mình đã đủ tự tin để cho người khác thấy, tôi lấy hết ý chí ép mình phải ra khỏi phòng.
Hành lang vắng tanh, tạ ơn trời đất. Và có ánh sáng lọt qua khe cửa, nghĩa là bà ấy còn thức. Thở phảo, tôi giơ tay lên gõ.
Cả hai người cùng kêu lên khi cửa mở ra.
“Nick?” Bà ấy hỏi, mắt trợn tròn.
Tôi ngửa mặt. Bà ấy phải cao năm feet mười một. Có bà già nào cần cao đến mức ấy đâu chứ. “Chào, Mrs. Everley.”
Bà Everley cuộn tay đặt trước ngực, và tôi có cảm giác mình cần phải quen dần với việc thấy biểu cảm đó ở người khác.
Thương hại.
Ánh mắt tôi rơi xuống đôi dép xanh lam của bà. “Tôi chỉ băn khoăn là liệu bà có mấy cái kim băng cho tôi mượn được không?”
“Kim băng?” Bà im lặng một lúc rồi nói. “À, cậu cần sửa lại quần phải không?”
Tôi gật đầu về phía sàn nhà.
Một bàn tay ấm áp đặt lên lưng tôi, đẩy tôi vào trong. “Kim băng không dùng được đâu. Để tôi làm cho.”
Tôi ngẩng lên. “Thật à?”
Bà ấy cười hiền từ. “Dĩ nhiên rồi, cậu bé. Cậu cần quần áo vừa vặn.”
“Nhưng…” Tôi lắc đầu. “Như thế sẽ làm phiền bà lắm. Nhất là lúc đêm hôm thế này.”
“Không, không. Chỉ mất vài phút thôi.” Bà nhẹ nhàng vỗ má tôi rồi đi vào phòng khác. “Để tôi đi lấy đồ.”
Tôi đứng giữa phòng khách, vừa chờ vừa nhìn những tấm rèm thêu ren, những cái khăn lót bàn, những mảnh vải vắt trên lưng ghế. Nhưng lông mày tôi nhướn lên khi bắt gặp ba gã yêu lùn sống trong vườn đang đứng túm tụm một góc, nhưng rồi quyết định là chúng cũng được coi là thân thiện nên quay mặt đi.
Ở đây thật thoải mái. Chưa từng gặp mặt bà nội hay bà ngoại, tôi đã luôn tưởng tượng rằng họ sống ở những nơi như thế này. Êm đềm, ấm cúng, và có phần kỳ quái.
Căn hộ của tôi chẳng khác nào chỗ để ngủ. Tìm một trang Web, chọn đồ cho phòng ăn, phòng khách, và phòng ngủ, tính tiền vào tài khoản. Đơn giản. Khi đồ đạc đến, trông cũng giống giống ảnh quảng cáo, và tôi chưa từng một lần nghĩ ngợi.
Nhưng tôi không nhớ nổi lần cuối cùng có bạn đến chơi là bao giờ, rồi tự hỏi liệu có ai đủ thân để nhận ra đó là căn hộ của tôi không.
“Được rồi, cưng à.” Mrs. Everley quay trở lại phòng khách. “Bắt tay vào sửa sang cho cậu thôi.”
“Mrs. Everley…” Tôi nhìn vào đôi mắt xám. “Làm phiền bà quá.”
“Vớ vẩn.” Bà quỳ xuống trước mặt tôi, đặt hộp kim chỉ màu vàng lên sàn, và gỡ gấu quần xuống. “Khâu vào thì đơn giản. Lớn lên mới làm mọi thứ trở nên kỳ quái. Sớm hay muộn cũng hết đồ để mặc và phải mua quần áo mới.”
Tôi nghiêng đầu. “Bà không thích cao à?”
“Trời đất, không. Tôi thấy năm feet tư là thoải mái lắm rồi, cám ơn cậu.”
Bảy inch. “Bà phát triển nhiều hơn mức thống kê trung bình.” Tôi nói như máy.
Bà đằng hắng, như thể sự thật ấy còn làm chuyện tệ hơn. “Tôi chẳng bao giờ quan tâm tới số má gì hết.”
Môi tôi giật giật, kéo thành một nụ cười nhẹ khi tôi nhìn xuống đỉnh đầu đang cúi của bà. Chúng tôi quá khác biệt, nhưng bà chẳng mảy may đắn đo khi giúp tôi.
“Nick.” Bà mở hộp kim chỉ và lôi ra một cái gối cắm kim. “Lấy số đo xong, tôi sẽ làm lại hết quần áo cho cậu. Chỉ cần khoảng một tuần là xong.”
Tôi nhìn sang bên cạnh, một nỗi ân hận len lỏi vào trong mình. Mrs. Everley chẳng hề quan tâm tới các con số, bà thấy thoải mái vì là chính mình.
Nếu người phụ nữ này thật sự là bà của tôi, ảnh hưởng của bà chắc đã cứu tôi khỏi rất nhiều đau khổ.
______