Charlie đứng như trời trồng. Không dễ gì tháo chạy khi nó phải lỉnh kỉnh xách một cái lồng và một cái thùng các - tông lớn, lại phải chờ con vịt theo cho kịp. Chỉ còn một giải pháp duy nhất.
“Hạt đậu, cắn chúng!” Charlie ra lệnh.
Con chó bự không cần cổ động thêm. Chú ta xồ tới đám nhà Loom, sủa điên tiết. Nhưng kinh nghiệm huấn luyện bốn con chó săn của Albert và Alfred không dùng thì để làm gì! Albert tóm ngay lấy vòng cổ của Hạt Đậu và giật nó vào lề con hẻm, ở đó Alfred xích tịt con chó vào một cột đèn.
Tức lồng lộn, tiếng tru tréo của Hạt Đậu gầm lên đủ đánh thức cả thành phố, nhưng không có cảnh sát thân thiện nào xuất hiện và không ai ló ra khỏi cửa quán Cà Phê Thú Kiểng. Tuy nhiên vẹt Homer là một con chim hành động. Cậu chàng bổ nhào từ trên trời xuống và sục móng vuốt vào cái đầu loăn quăn của Dorcas.
“Cút! Xéo” Dorcas thét ầm.
Joshua túm lấy cổ Homer mà xiết. Đôi mắt xám của con vẹt trợn phồng lên. Nó bị nghẹt thở và quạt cánh, chân quơ quắp không khí khi bị Joshua lôi rị, bứt nó ra khỏi Dorcas và lắc nó lặt lẹo qua trái qua phải.
Con trăn rít lên một tiếng giận dữ khi cái lồng nhốt nó bị rơi bộp xuống, Charlie muốn thả trăn ra vô cùng, nhưng nó không thể nào liều để cho một sinh vật khác bị thương. Đặt cái thùng thỏ với chuột xuống cạnh lồng trăn, Charlie lao vào Joshua.
“Buông nó ra!” Charlie thét lên, cố gỡ những ngón tay của Joshua ra khỏi cổ con vẹt.
Nhưng Charlie không làm gì được nữa. Alfred đã ôm quàng lấy nó từ sau lưng, và Albert đục mạnh vào bụng nó.
“Úi daaaaa!” Charlie khuỵu chìm xuống gối, gập người lại đau đớn.
Alfert chộp lấy cái lồng và bỏ chạy khỏi hẻm Con Ếch, Alfred theo sau với cái thùng. Chúng nện rầm rập tới đầu ngõ hẹp, lùa Nancy đằng trước, trong khi Dorcas giúp Joshua nhét vẹt Homer vào ba lô của thằng này.
“Mày có thể giữ con chó”, Alfed hét với lại Charlie, “vào lúc này”. Bước chân hắn chợt sững lại thình lình. “Cái gì...?” Giọng hắn hơi run rẩy.
Charlie ngóc nhìn lên.
Ở cuối hẻm Con Ếch, ba khối sáng xuất hiện.
“Những con mèo lửa”, Charlie nín thở.
Một tiếng gầm rung chuyển con hẻm hẹp: tiếng ngao giận dữ, trầm đục của một sinh vật hoang dã. Tiếng ngao thứ hai hoà vào tiếng thứ nhất, và rồi tiếng thứ ba ngân cao hơn. Joshua cùng đám nhà Loom lùi lại, lùi lại. Càng lúc càng quýnh quáng. Chúng chưa kịp quay đầu thì một quầng sáng rực như lửa, chẽ làm ba, bay về phía bọn con trai, đáp xuống vai chúng.
Thét lên khiếp đảm, Joshua và lũ nhà Loom khua khoắng túi bụi khi những sinh vật cháy loá cắn vô cổ chúng.
“Giúp tụi này, Dorc,” Albert gào.
Khóc nức nở vẻ tiếc rẻ, Dorcas chạy vắt giò lên cổ không dám ngoái lại lần nào.
Đến lúc này, Albert đã phải thả rơi cái lồng và Alfred phải quăng cái thùng qua một bên. Một con mèo vàng vẫn bấu lấy ba lô của Joshua; miệng kêu bù lu bù loa hoảng loạn, thằng này giật bỏ ba lô ra khỏi lưng và chạy thục mạng theo bọn Loom, đang phóng chối chết gần hết con hẻm, nhanh chưa từng thấy.
“Tất cả chuyện này là sao đây?” Một giọng oang oang đằng sau Charlie.
“Ông Onimous đứng trong ngưỡng cửa quán Cà Phê Thú Kiểng. Ông mặc áo choàng dài bằng lông thú giả (Charlie hy vọng vậy) và trông giống như một con chuột chũi kinh khủng. “Chưa ăn sáng gì cả”, ông bảo, “vào thứ Bảy này. Chúng tôi đang định ngủ nướng ấy chứ.”
“Bọn nhà Loom đánh cháu.” Charlie đứng lên, xoa xoa cái bụng. “Bọn chúng với cái thằng Joshua Tilpin đồi bại đó”.
“Bác thấy cháu có một con vịt... và một con chó... và lại cả con trăn xanh da trời của chúng tôi nữa. Oronia sẽ mừng húm đây”.
Hạt Đậu sủa um lên khoái chí khi Charlie tháo xích cho nó.
“Cháu tìm được tất cả bọn chúng này,” Charlie nói, nhìn vô trong cái thùng. “Thỏ của Olivia và chuột cảnh của Gabriel”.
“Cái ba lô kia đang nói chuyện một mình kìa”, ông Onimous lo lắng nhận xét.
Charlie lật đật nhặt ba lô lên và mở quai ra. Vẹt Homer bắn vọt ra và bay lên không, nguyền rủa om xòm. Ông Onimous áp hai tay lên che tai. “Ngôn ngữ của cái con vẹt đó!...” Ông phản đối. “Nó học cái thứ kinh tởm ấy ở đâu ra vậy?”.
“Trong quân đội”, Charlie đáp. “Lysander bảo với cháu vậy”.
“Chậc! Chậc!” Ông Onimous xách lồng chim và cái thùng vào quán cà phê, trong khi Charlie vỗ về cho vịt Nancy bước qua cửa. Hạt Đậu thì không cần phải dụ. Nó xồ vào trong quán, vòng qua quầy và xông vào nhà bếp, ở đó nó biết sẽ có ít nhất là một cái bánh sô-cô-la rơi xuống cho mình.
Bà Onimous, mặc kimono hồng, đang chiên thịt heo muối khi Charlie và chồng bà bước vào. “Mấy con thú về rồi” Bà reo lên. “Ôi, bọn thú cưng yêu dấu. Sô-cô-la cho Hạt Đậu, bánh mì nướng cho Nancy và một cái gì đó đặc biệt cho con trăn này. Cháu tìm thấy chúng ở đâu vậy, Charlie?”
Charlie giả bộ như không nghe thấy. “Bà có thể dành hai củ cà rốt cho lũ thủ được không ạ, và có lẽ một quả táo cho lũ chuột nữa?”
“Dĩ nhiên, Charlie. Nhưng lâu này chúng ở đâu vậy?” Bà Onimous nằng nặc hỏi.
“Ưm. Thật khó nói.”
Ông bà Onimous không hỏi thêm gì nữa vào lúc này. Họ bắt đầu cho bọn thú và cả Charlie ăn. Bà Onimous đang rót tách trà thứ hai thì một giọng nhừa nhựa vang lên đâu đó bên trong quán cà phê, “Xin chào!”
“Chúng tôi đóng cửa”, bà Onimous nói vọng ra, nhăn mày. Hạ giọng xuống bà bảo, “Tôi ghét bị người ta bắt gặp đang mặc kimono lắm.”
“Anh chắc chắn là đã khóa cửa rồi”, ông Onimous nhón gót đi ra khỏi nhà bếp, và thoáng sau quay trở lại với một vẻ kinh ngạc trên mặt, và một con vẹt đậu trên đầu. “Chắc là đã kịp bay vào trước khi ta đóng cửa”, ông Onimous nói. “Một cái mỏ nữa chần cho ăn này em ơi”.
Nhưng Homer không đợi ai phục vụ mình. Nó sà xuống bàn, vớt một mẩu bánh mì nướng và bay lên một cái kệ cao, ở đó nó vừa xé bánh vừa lầm bà lầm bầm không thôi.
“Thô lỗ quá”, bà Onimous càu nhàu, chắc có ý ám chỉ hành vi của con vẹt, mặc dù cũng có thể là ám chỉ ngôn ngữ của nó.
Khi tất cả các con thú đã yên ổn, ông Onimous một lần nữa lại hỏi Charlie xem nó đã tìm thấy chúng ở đâu. Charlie nặn óc ra tìm câu trả lời. Nó biết mình có thể tin cậy gia đình Onimous, nhưng nó đã hứa với ông Bartholomew là không được nói cho một linh hồn nào về ngôi nhà trong đồng hoang.
“Ở trên cầu”, cuối cùng Charlie nói. “Cháu nghe thấy tiếng Hạt Đậu sủa và... liền tới đó.”
“Liền tới đó thôi à”, bà Onimous nghi ngờ. “Và tình cờ trông thấy tất cả những con thú của bạn bè cháu, chứ không thấy thú nào khác? Không có mèo con, không chuột hay chó con của ai khác?”.
“À... không ạ”, Charlie nói.
“Để mặc cậu bé đi, Onoria”, ông Onimous nhắc. “Anh nghĩ nó đã hứa với ai đó rồi. Phải không Charlie?”
Charlie di di bàn chân. “À, dạ. Và đáng ra cháu phải nói cho ông biết, thật đấy, nhưng cháu không nói được.”
“Cháu không tin chúng ta sao?” Onoria khịt mũi.
“Không, không. À, có, có, dĩ nhiên là có, nhưng mà...”
“Charlie, chú bé, đừng phí sức nữa,” ông Onimous nói nhẹ nhàng. “Cháu mang con chó đó về cho Benjamin đi, và chúng ta sẽ trông chừng những con khác cho tới khi bạn bè của cháu tới nhận chugns về. Chúng ta sẽ chăm sóc chúng chu đáo, phải không em?” Ông quay qua vợ.
“Em không chắc về con vẹt đâu”, bà Onimous liếc lên trên. “Nhưng em sẽ cố hết sức.”
“Cám ơn! Ông bà là tuyệt vời nhất!” Charlie túm lấy vòng cổ của Hạt Đậu và dẫn nó ra khỏi quán cà phê.
Khi chúng về đến đường Filbert, Charlie trù trừ đi tới nhà số . Charlie mẹ Benjamin dạo này hành xử rất kỳ lạ, nó tự hỏi liệu mình có được chào đón ở đó không. “Nhưng mày là con chó của Ben,” Charlie nói với Hạt Đậu, “vì vậy mày về nhà là tốt hơn cả.”
Tiếng sủa ông ổng của con chó to đã xác nhận lý lẽ ấy.
Cô Brown mở cửa cho Charlie. “Charlie, hay quá. Cháu tìm được con chó của Benjamin rồi”, cô cười rạng rỡ.
Charlie không thể hiểu nổi. Mới phút trước cô Brown còn lơ nó đi thì phút sau cô đã xởi lởi mời nó vào nhà, như thể kể từ hồi điện thoại di động được phát minh ra thì đến nó là thứ hay ho nhất vậy. “Benjamin, Hạt Đậu này!” Cô gọi lên cầu thang.
“Cái gì?” Một tiếng thét phấn khích.
Ngay giây tiếp theo là Benjamin nửa té, nửa nhảy xuống cầu thang, trong khi Hạt Đậu lao vọt lên đón nó, rú lên vì sung sướng.
“Charlie, bồ tìm thấy nó à? Nó ở đâu vậy? Ồ, cảm ơn, Charlie. Cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn! Bồ là nhất!”
Con chó và thằng bé lăn cù xuống hành lang chỗ Charlie đứng; thằng bé hoàn toàn không biết phải nói gì.
“Bồ tìm thấy nó ở đâu vậy?” Benjamin nài nỉ.
“Ồ, ở trên đường”, Charlie lọng cọng nói. “Chắc là nó đang trên đường về đây.”
“Trên đường?” Đôi mắt xám của cô Brown híp lại. “Cháu có chắc không?”
“Chắc ạ”, Charlie không thích cái kiểu mẹ Benjamin đang nhìn mình.
“Còn những con khác thì sao? Cô không nghe thấy tiếng chim. Không nhìn thấy con chó nào trên đường.”
Trông cô Brown có vẻ đáng ngờ đến nỗi Charlie chỉ muốn lùi ngay ra khỏi cửa trước. Nhưng nó chỉ nói, “Cháu không biết gì về những con khác cả. Cháu tìm thấy Hạt Đậu và liền đem nó về nhà. Nếu vậy còn chưa đủ tốt với cô thì cháu cũng chịu thôi!” Rồi nó quay ra cửa.
“Charlie,” Benjamin hét lên, túm chặt lấy cánh tay nó. “Dĩ nhiên là quá tốt ấy chứ. Lên lầu với mình và Billy đi.”
“Phải đó, lên đi”, Billy gọi xuống từ trên đỉnh cầu thang.
Miệng cô Brown mím chặt lại thành một đường thẳng nhỏ xíu, và không thêm một lời nào nữa, cô dông thẳng vào nhà bếp.
Charlie đá văng đôi giày bốt của mình ra và chạy tọt lên lầu. Ngay khi đã yên ổn trong căn phòng nóng hầm hập của Benjamin, nó liền cởi phăng chiếc áo gió nặng ra và hét một hơi, “Ben, mẹ của bồ làm sao vậy? Bồ có biết là mẹ bồ với ba của bồ đang làm việc cho Học viện Bloor không?”
Billy coi bộ không thoải mái. “Billy nói cho mình biết rồi. Nhưng mình thề là trước đó mình không biết. Khi mình hỏi mẹ về chuyện này thì mẹ mình bảo đó là một công việc như bất kỳ việc nào khác.”
“Nhưng ba mẹ bồ là thám tử tư, Ben”, Charlie nói, “Chắc chắn cô chú ấy phải đang điều tra cái gì đó.”
“Đúng, chắc chắn vậy,” Billy đồng tình.
“Ờ, mình có nghe lỏm ba mẹ mình nói chuyện”, Benjamin thừa nhận.
“Chuyện gì? Chuyện gì?” Charlie nhảy tưng lên giường ngồi giữa Benjamin và Billy.
Chuột Rembrandt, đang ngủ gà ngủ gật trong chiếc dép lê của Benjamin, giật mình tỉnh giấc và lút cút chạy ào xuống gầm giường, trong khi Hạt Đậu, tí tởn cho rằng con chuột muốn đùa giỡn với mình, bèn ép mình xuống gầm giường theo Rembrandt, sủa nhắng cả lên.
“Lui ra!” Billy cuống quýt hét om. “Nếu mày mà làm con chuột của tao bị thương thì tao sẽ giết mày, đồ chó ghẻ”.
“Billy!” Benjamin bị sốc quá, vụt hét lên.
Cuộc đấu khẩu chưa kịp nổ ra, mọi thứ dưới gầm giường đã lại im ắng. Charlie nói nhanh. “Thế cậu đã nghe thấy gì vậy, Ben?”
“Ờ, mình ở bên ngoài phòng ngủ của ba mẹ mình, cho nên không nghe rõ lắm, nhưng mẹ mình có nói gì đó về ảo ảnh. Billy thì bảo với mình là ảo ảnh xuất hiện trong Học viện Bloor, cho nên mình tiếng sát gần hơn thì nghe ba mình bảo ba mình có một ý. Rằng ba đã theo dõi những ảo ảnh. Rằng ba biết ai đã tạo ra chúng, chỉ cần thêm một ảo ảnh nữa là...”.
“Ảo ảnh!” Charlie nhảy phắt ra khỏi giường. “Họ đang cố tìm xem ai tạo ra ảo ảnh, đồ lén lút...” nó vội im bặt nhận ra mình vừa nói gì.
“Đó không phải lỗi của ba mẹ mình,” Benjamin nói. “Họ làm vậy chỉ là để kiếm tiền thôi mà”.
“Đó là anh làm phải không, Charlie?” Billy hỏi. “Anh làm phải không?”
“Không.” Charlie lắc đầu. “Anh không tạo ra ảo ảnh được.”
“Nhưng bồ biết người làm thì phải?” Benjamin nhấn mạnh.
“Không”, Charlie nói.
“Dù có biết là ai anh cũng không nói cho bọn em biết?” Billy nói.
Charlie liếc nhìn Billy, “Ừ”.
“Em không trách anh”, Billy hơi rầu rĩ.
Hạt Đậu đang ngáy o o dưới gầm giường và Rembrandt, chớp lấy cơ hội, lại lấm lét ló ra. Nó mon men tới gần bàn chân của Charlie, nhai cái gì đó.
“Nó nhai gì vậy?” Benjamin hỏi.
“Trông như một tấm hình”, Billy đáp.
“HÌNH?” Charlie tá hỏa chộp lấy con chuột. “Không, không. Cái hình ấy. Nó là hình của mình. Cơ hội duy nhất của mình”.
Rembrandt, sửng sốt bởi tia nhìn trong mắt Charlie, liền há miệng ra, và một tờ giấy nhỏ hình vuông rơi phều xuống đất. Charlie thảy con chuột lên đùi Billy và vớt tấm hình lên. May thay, chỉ có một góc hình bị nhai. Ông Bartholomew nói đúng. Đó không phải là cú bấm máy đẹp cho lắm. Mây và tuyết hầu như che kín cái người duy nhất ở cận cảnh.
“Mình quên khuấy mất tấm hình,” Charlie áp tấm hình vào ngực. “Làm sao mình lại quên được cơ chứ? Bác ấy đút nó vào túi mình, và khi mình cởi áo khoác thì nó rơi tuột ra.”
“Ai đút vào túi bồ?” Benjamin hỏi.
“Cái gì?” Bị hớ, Charlie làu bàu. “Ồ, không ai cả, thật. Ý mình là mình đã đút nó vào đấy.”
Benjamin trợn mắt nhìn nó. “Dạo này cậu hay bí bí mật mật lắm đó. Tụi này là bạn của bồ, phải không nào?” Nó nói.
Charlie chưa kịp trả lời, Rembrandt và Hạt Đậu đã lại chí chóe nữa. Con chuột phóng tuốt lên một cái kệ, và Hạt Đậu sủa inh ỏi, đứng hằn lên hai chân sau, cố sức doãi cặp chân trước theo chiều dọc cái kệ. Sách với đồ chơi đổ nhà xuống đất, và phút kế tiếp, cánh cửa vụt mở, một cô Brown giận tím tái đứng ở ngưỡng cửa.
“Benjamin!” Mẹ nó hét. “Con không thể kiểm soát được con chó đó sao? Ba với mẹ đang cố viết cho xong báo cáo mà chữ nghĩa cứ văng tóe đi hết thôi.”
Benjamin chớp mắt, “Cái gì văng tóe hết ạ?” Nó hỏi.
Cô Brown dậm chân, “Đem nó ra ngoài!” Cô lùi lại và chỉ ra cầu thang. “Mau!”.
Không hó hé lời nào nữa, ba thằng con trai mặc áo khoác và đi xuống lầu để mang giày ống vô. Billy nhét Rembrandt vào túi áo, còn Benjamin tròng Hạt Đậu vào dây xích. Sau đó cả đoàn bươn bả đi ra ngoài trời giá lạnh.
Một chiếc xe tải trông lịch lãm rời khỏi lề đường đối diện khi bọn con trai ló ra, nhưng lúc này Charlie chẳng nghĩ gì tới chiếc xe cả. Nó bảo bọn kia rằng nó không thể ra công viên được vì có việc gấp cần làm, và với cái nhún vai cam chịu, bọn bạn chấp nhận rằng những vấn đề của Charlie quan trọng hơn trò chơi trong công viên.
Có tiếng ồ òa phấn khích vọng ra từ bếp nhà số . Bất chấp sự nôn nóng muốn xem tấm hình ông Bartholomew đưa cho, Charlie vẫn bị cuốn về phía đó. Nó thấy gia đình mình quây quần quanh một giỏ đò ăn lớn để trên bàn bếp. Nội Bone đang ngồi gần bếp lò, quay lưng lại phía họ.
“Coi này, Charlie, giỏ đồ ăn Paton!” Ngoại Maisie thông báo bằng giọng gần như là kính cẩn. “Nói mới tới cách đây năm phút thôi.”
Nắp giỏ đã được mở và bày ra bên trong một chai rượu sâm banh lớn, với nhiều gói đồ ăn đề những cái tên quái chiêu bao quanh.
“Có một tờ nhắn này”, cô Amy nói, với tay vào giữa bao đậu phộng bóng loáng và hũ trái cây ngâm đường. Cô lôi ra một tấm danh thiếp trang trí cầu kỳ và trao cho Ông cậu Paton.
“Chữ viết hoa mỹ đấy,” Ông cậu Paton nhận xét, quan sát tấm thiệp.
Được đóng trong một cái khung trang hoàng lông chim vàng lấp lánh là nội dung sau:
Kính thưa ông Yewbeam,
Một cái trết không mai đã làm lỡ Bữa Tiệc thứ Sáu của ngài. Tôi hy vọng điều nài không gây cho ngài bực mình. Đây là món ăn để làm vui những trái tim và giúp ổn thỏa được mọi chiện.
“Sai chính tả khủng khiếp”, Charlie nhận xét. “Con học năm hai thôi mà còn có thể viết hay hơn thế”.
“Bọn ta không phải lũ khoe chữ”, nội Bone chõ vào, thậm chí không buồn ngoái đầu lại.
“Ô này, Tôm Vua!” Ngoại Maisie reo. “Chúng vẫn còn đông lanh. Tôi cất chúng vào tủ đông nhé, Paton?”
“Ừmm.” Ông cậu Paton liếm môi. “Cứ để chúng rã đông đi. Tôi sẽ ăn trưa món đó”.
Giỏ đồ ăn đến thật đúng lúc đối với Charlie. Trong khi ngoại Maisie và mẹ nó vẫn đang trầm trồ với từng gói đồ ăn được gói cẩn thận, nó lẻn lên phòng mình, nhẹ nhõm vì không ai hỏi nó đã đi đâu suốt cả buổi sáng.
Ngay khi đóng cửa phòng lại, Charlie lôi tấm hình ra và ngồi lên giường. Nó thấy một người đàn ông đang đứng, quay nửa người về phía máy chụp hình. Mặc dù tuyết phủ kín khung cảnh chính, Charlie vẫn có thể nhận ra đó là ông Bartholomew. Ông đội nón len, mặc áo khoác độn bông và đi giày ống dài, có dây cột.
Charlie dí tấm hình sát vào mặt. Con bướm trắng bay qua phòng và đậu lên cánh tay nó.
“Ba mình trong tấm hình này nè”, Charlie nói với con bướm trắng. “Ba ở ngay đằng kia, nhìn ông Bartholomew Bloor qua kính ngắm, và... tách... chộp được ông ấy, mãi mãi như thế. Vì vậy nếu mình đi vào đó và quay qua nhìn máy chụp hình thì mình sẽ trông thấy ba, đúng không? Bướm nghĩ sao?”
Con bướm trắng di chuyển đầy che chở xuống cổ tay nó và Charlie mỉm cười trước những cái chân bướm chạm nhẹ vào mình. Nó phấn khích vì vui đến nỗi bàn tay run run, và con bướm trắng lại di chuyển tiếp, cho tới khi đôi cánh lấp loáng quạt quạt nơi đầu ngón tay trỏ của cha.
“Vậy là đúng hả?” Charlie đã có thể nghe thấy tiếng tuyết rào rạo và tiếng ai đó thở đều đều vào tai nó. Nó vẫn luôn thích cái khoảnh khắc này – ngay khi những âm thanh vừa chạm tới, nó đã thấy mình trôi lềnh bềnh vào một tấm hình.
“Đi nào,” nó nói. Thân thể nó trở nên không trọng lượng, đồng thời nó bị nuốt chửng vào đám mây mù thời gian dày đặc. Giờ thì bắt đầu cú rơi xoáy chầm chậm về phía hình hài đơn độc của ông Bartholomew và người đàn ông đằng sau máy chụp hình.
Tiếng cười. Cả hai giọng cười đều sung sướng và tâm lành. Nó có nhận ra được tiếng ai với tiếng ai không? Charlie nghe thấy tiếng cười khục khục của ông Bartholomew, nhưng còn tiếng cười phát ra từ người kia thì...
“Thôi đi, Lyell. Tuyết dày quá.”
Không có tiếng trả lời.
“Cậu làm rớt máy chụp hình bây giờ. Đeo bao tay vào. Tay cậu đông lại rồi kìa.”
Không có lời đáp. Chỉ có tiếng cười dịu nhẹ.
Charlie tự hỏi ông Bartholomew có trông thấy mặt nó trong màn tuyết dày đặc không. Khi nó “du hành” thì chỉ có gương mặt nó được người nó “viếng thăm” trông thấy – cái vụ đó có thể hơi ớn một chút.
Cơn gió điên cuồng thổi tung tuyết vào mắt Charlie. Nó cố phủi chúng đi bằng hai bàn tay tê cứng. “Ông Bartholomew!” Nó gọi.
Ông Bartholomew không nghe được tiếng nó. Nhà thám hiểm đã quay đi và gọi. “Đi thôi, Lyell. Chụp thế được rồi.”
Giờ là lúc cho Charlie quay mặt lại. Giờ, rõ mười mươi, nó sẽ trông thấy người đàn ông đằng sau máy chụp hình.
Nó quay lại.
Nó thấy một người đàn ông đội mũ trùm viền lông thú. Cằm ông tụt xuống trong cổ chiếc áo khoác có lớp lót, và phần còn lại của gương mặt ông bị chiếc máy chụp hình che kín.
“Lyell!” Ông Bartholomew gọi. “Hết ánh sáng rồi. Chúng ta phải trở về thôi.”
Một lần nữa lại tiếng cười dịu đó. “Cháu đến ngay đây.”
Giọng nói của ai vậy? Charlie có nhận ra giọng nói đó không? Máy chụp hình được hạ xuống và được đút vào túi áo. Chiếc mũ trùm đầu che sụp mắt người đàn ông. Ông đeo bao tay vào, cúi sát đầu xuống.
“Ba!” Charlie gọi. “Ba ơi!”
Người đàn ông bước tới trước. Ông đi sượt ngang qua mặt Charlie, đầu cúi oằn xuống để chống chọi với đợt tuyết đang ùa tới.
“Ba!” Charlie vừa vươn tay ra thì hứng trọn một bụm tuyết đầy.
Người đàn ông ngước mặt lên nhìn trời, như thể ông đã nghe thấy tiếng gọi âm u đó trong không gian xáo động. Chiếc mũ trùm của ông lật ra sau, nhưng Charlie chỉ thấy mờ mờ, tựa như một gương mặt đằng sau tấm kính đọng sương. Rồi lập tức gương mặt đó bị nhấn chìm trong tuyết.
“Chờ đã!” Charlie hét to. Khi nó há miệng, những hạt nước đá nhỏ li ti văng ra, rơi xuống tuyết thành những tiếng lanh canh độc ác. Ngực Charlie xé buốt như bị dao đâm. “Con sẽ đi đâu bây giờ?” Nó rền rĩ.
Trở lại cái nơi mà từ đó ngươi đã tới, cái giọng lý lẽ vang lên, nhưng não của Charlie đã mụ đi vì lạnh đến mức không thể nghĩ được sẽ về lại nơi đó bằng cách nào.
Mình sẽ chết cóng mất thôi, nó nghĩ. Nhưng người ta nói đó là một cách chết dễ chịu mà. Nó nhắm mắt lại. trong bóng tối mới thật yên bình. Chẳng bao sau nó thiếp đi.
Có cái gì đó cắn bàn tay Charlie. Nó cố vẩy đi, nhưng cái đó cứ bám riết lấy nó. Giờ thì nó đang chích ngón tay Charlie, bò qua mặt nó, giật tóc, rứt cằm nó.
“Để tôi ngủ, “Charlie van vỉ. Cái lạnh bao trùm lấy nó trong một tấm chăn dễ chịu.
“Hãy trở lại!” Tiếng thì thào dường như được dệt từ lụa mịn, nhẹ và cấp bách vô cùng. Charlie cảm thấy mình được nâng lên. Nó lăn mình trong không khí, thấy ấm lên, ấm dần lên, cho tới khi... nó mở choàng mắt ra.
Nó đang nằm trên giường của mình. Con bướm trắng lượn lờ phía bên trên, đôi cánh sáng chấp chới giống bạc hơn bao giờ hết.
“Bướm đã làm điều đấy”, Charlie nói đầy ngờ vực. “Bướm đã đưa mình trở về”.
Con bướm trắng đậu trên bàn tay Charlie. Nó không nói được nhưng sợi dây thấu hiểu nối kết họ với nhau kiến Charlie có thể nghe được câu trả lời.
“Phải, ta làm đó.”
Charlie ngồi lên. “Vậy là nếu có bướm đi cùng ta khi ta du hành thì ta sẽ luôn trở về được?”
Không có câu trả lời bởi một tiếng thét đã vang động cả nhà; một tiếng thét sầu thảm và kinh hoàng đến nỗi Charlie cảm thấy như tim mình ngừng đập.
Đó là tiếng thét của mẹ nó.