Đồng hoang. Cái từ đó cứ lởn vởn trong tâm trí cả đám nhưng không, à chưa đứa nào dám nói tuột ra. Đến lúc này thành phố đã đông nghẹt người đi mua sắm ngày thứ Bảy và khi bốn đứa rời quán Cà Phê Thú Kiểng, chúng liền hướng ngay về con phố tĩnh lặng dẫn tới tiệm sách cô Ingledew.
Mỗi cuối tuần Emma đều phụ trông coi tiệm sách, cũng là nơi con bé sống với dì Julia của nó – một người dì rất thông minh và tốt bụng. Hầu như tất cả những sách hiếm và cổ trên kệ sách của mình dì đều đã đọc qua, còn kiến thức của dì về thành phố và về quá khứ của thành phố thì thuộc loại uyên thâm hiếm có. Rất có thể dì sẽ biết về cánh đồng hoang bên kia sông. Cũng rất có khả năng là Ông cậu Paton của Charlie đang ở tiệm sách. Thế cho nên, thậm chí không bàn một lời, lũ trẻ cùng bị hút về phía hai người có thể nói cho chúng biết điều gì đã xảy ra với đám muông thú.
Kiệt sức sau cuộc hành trình dài của mình, Rembrandt đã rơi vào giấc ngủ mê mụ. Nó nằm tròn vo trong túi quần Billy, chẳng thể chít thêm được một tiếng nào nữa.
Khi cả bọn kéo gần đến tiệm sách, cái ồn ào của thành phố lùi xa dần và đột nhiên chúng nhận thấy có gì đó không ổn. Chẳng đứa nào có thể xác định được đó là cái gì, nhưng không hiểu sao cả bọn cứ cảm thấy hốt ha hốt hoảng.
“Ở đây ớn như có ma ám,” Benjamin nhăn mũi. “Hồi nào có bao giờ như vậy đâu.”
“Không có chim chóc,” Emma bảo. “Bọn chúng đi hết cả rồi.”
Cả đám đến được quảng trường rộng rải sỏi ở đằng trước nhà thờ lớn, nơi mà thường ngày vẫn thấy ít nhất một tá quạ gáy xám đi nghênh ngang trên lớp sỏi, hoặc quang quác rầm rĩ trên nóc nhà. Hôm nay thậm chí đến một con chim bồ câu cũng chẳng có.
“Không có mèo luôn,” Charlie nhận xét. “Mọi khi lúc nào cũng có một con mèo bắt chuột quanh nhà thờ lớn mà.”
“Cả chó cũng không,” Benjamin xoay tròn trên gót chân, trố mắt nhìn quanh quảng trường. “Thứ Bảy người ta hay dắt chó đến đây. Vậy chứ, chúng đâu hết rồi?”
Billy nói toẹt ra cái từ đang ở trong đầu cả đám. “Trong đồng hoang.”
Charlie bất chợt có cảm giác như kiến bò đằng sau gáy mình. Có ai đó đang nhìn bọn chúng. Nó quay phắt lại, vừa kịp thấy một bóng hình màu vàng biến vụt vào một ngõ hẻm. “Tụi mình đang bị theo dõi,” nó lẳng lặng nói. “Mình vừa mới thấy một cái gì màu vàng lồng phồng, ở đằng kia kìa.”
Không đứa nào dám nhìn theo tay Charlie chỉ. Cả đám vắt giò chạy tọt vào tiệm sách như thể có một con quái vật đang lần theo dấu. Charlie chạy theo bọn bạn, loạng choạng xuống những bậc tam cấp dẫn vào trong tiệm và va sầm vào Benjamin, thằng này hoảng vía thét lên một tiếng cảnh báo.
Giật mình bởi sự náo loạn đột ngột, Ông cậu Paton Yewbeam, đang đứng chông chênh trên đỉnh chiếc thang gấp, bỗng lắc lư thật nguy hiểm và suýt nữa thì làm tuột mất chồng sách ông ôm đầy ứ trong vòng tay, đang định chất lên cái kệ cao.
“Paton, coi chừng!” Cô Julia Ingledew chạy bắn qua phòng đến giữ cái thang lại.
“Lại vụ gì thế, bọn nhỏ?” Ông cậu Paton đặt đống sách lên kệ và leo xuống thang.
Tất cả bốn đứa trẻ thi nhau nói một lúc, khiến Ông cậu Paton phải bịt tai lại và hét lên, “Quỷ tha ma bắt, từng đứa một thôi.”
“Chúng ta nghỉ giải lao đi,” cô Ingledew đề nghị.
Tất cả liền dồn sang phòng khách nhỏ xíu đằng sau tiệm sách, và torng khi bọn con trai ngồi chen chúc cùng với sách trên ghế đẩu với ghế sofa, thì Emma thuật lại buổi sáng của mình, từ lúc phát hiện chuồng vịt của Nancy trống lốc đến lúc thấy vắng hẳn bóng chim, bóng thú trong thành phố.
“Ta cũng đã biết là có cái gì đó sai lệch,” Ông cậu Paton trầm ngâm. “Nhưng ta không tài nào nhận ra được cái sai lệch ấy là gì. Đeo mắt kính đen vào là ta hay để vuột mất chi tiết lắm.”
“Nhưng Ông cậu có biết gì về đồng hoang bên kia sông không?” Charlie hỏi ông cậu nó.
“Ta chưa bao giờ liều đi xa đến thế,” Ông cậu Paton nói với vẻ hối tiếc. “Mà tại sao thú vật lại chọn đi tới đó, ta hoàn toàn không biết.”
“Chúng sợ hãi,” Charlie nói.
“Nhưng tụi con không biết tại sao mà chúng sợ,” Emma tiếp.
“Biết chứ,” Billy xen vào. “Chẳng phải Rembrandt đã nói với tụi mình là có cái gì đó thức dậy và mặt đất rùng mình đó sao?”
“Cháu sẽ không bao giờ gặp lại Hạt Đậu nữa rồi,” Benjamin mếu máo. “Ôi, tại sao nó lại không thể chờ cháu vậy?”
Cô Ingledew nãy giờ vẫn lui cui dọn dẹp từng góc nhỏ trong căn phòng, bỗng dừng tay lại và nhìn xoáy vào Billy. “Rùng mình? Cháu bảo là rùng mình hả?” Cô hỏi Billy.
“Phải ạ, Rembrandt nói thế ạ,” Billy trả lời cô.
“À, em có giả thuyết gì về mặt đất chăng, Julia?” Ông cậu Paton ngồi xuống trở lại, kèm theo nụ cười.
Họ đợi cô Ingledew giải thích.
“Mọi người có thể cười nhạo tôi, nhưng mà tôi nói là có lý do cả đấy.” Cô cúi xuống bàn viết của mình và bắt đầu đút mớ báo chí vào ngăn kéo.
Sau một quãng thời gian chờ đợi bồn chồn ngắn ngủi, Charlie nằn nì, “Cô làm ơn nói cho tụi cháu nghe giả thuyết của cô đi, cô Ingledew. Tụi cháu sẽ không cười đâu mà.”
Cô Ingledew gạt mớ tóc dày màu hạt dẻ khỏi mặt và đứng thẳng lên. “Tốt lắm, nhưng cô chắc chắn cháu đã từng nghe nói về nó rồi, Charlie à.” Cô ngồi lên tay ghế của Ông cậu Paton. “Như các cháu biết đấy, Vua Đỏ, người mà tất cả các cháu là hậu duệ ấy – ngoại trừ cháu, dĩ nhiên rồi, Benjamin – ừm, khi hoàng hậu chết và nhà vua bỏ vào rừng than khóc một mình, thì mười người con của ngài đánh nhau liên miên, cho đến khi năm người trong số họ phải rời khỏi lâu đài mãi mãi. Nhưng cuộc chiến đó không hề chấm dứt, mà vẫn tiếp tục hàng nhiều thế kỷ, đúng vậy, đến tận nhiều thế kỷ sau.”
Tiếng lao nhao ngạc nhiên nổi lên khi bọn trẻ buột miệng:
“Chao! Nhiều thế kỷ?”
“Ý cô là hàng trăm, trăm năm hả?”
Charlie nói, “Giống hệt như đang diễn ra ngày hôm nay, phải không cô? Ý cháu là theo kiểu gia đình Bloor cố kiểm soát tất cả mọi người, rồi Ông cậu Paton chống lại họ khi họ đi quá xa...”
“Và bà nội gớm ghiếc của bồ luôn luôn chống lại bồ,” Benjamin thêm.
“Suỵt!” Ông cậu Paton huơ bàn tay lên. “Nếu bọn bay muốn nghe xem cô Ingledew nói gì thì làm ơn để cô ấy nói tiếp đi.”
Bọn trẻ lập tức im bặt.
Cô Ingledew mỉm cười hết lượt với cả đám trẻ. “Như cô đã nói đấy, sự giết chóc kéo dài hàng nhiều thế kỷ. Vùng đất xung quanh lâu đài là một chiến trường bất tận, cho tới khi, vào thế kỷ thứ , một trận hỏa hoạn đã thiêu hủy hầu hết nhà cửa trong thành phố. Chỉ còn mỗi khu vực nhỏ quanh nhà thờ lớn này là thoát được. Còn đâu tất cả nơi khác đều phải xây dựng lại. Chính vào khoảng thời gian này mà gia đình Bloor đã xây dựng nên một tòa nhà đồ sộ ngay trên bãi đất của lâu đài bị tàn phá.”
“Học viện Bloor!” Charlie kêu lên.
“Chính xác,” cô Ingledew xác nhận. “Mặc dù cô tin rằng vào thời đó nó được gọi là Dinh thự Bloor.”
Benjamin, giờ đang nhăn nhó vì tiếu kiên nhẫn, nói, “Cháu chẳng thấy chuyện này có gì liên quan tới việc mặt đất rùng mình cả.”
“Dĩ nhiên là không, cô rất tiếc. Để cô giải thích nhé,” cô Ingledew nói. “Nhưng nó liên quan tới lịch sử: bao nhiêu con người đau khổ, bao nhiêu con người bị căm ghét, sợ hãi, tất cả đều bị chôn vùi dưới những lớp tro tàn, bên dưới mảnh đất lâu đài và bên dưới thành phố, tất cả...” cô ép chặt mười ngón tay vào nhau, “tất cả dằn nén lại và rồi...” Cô liếc nhìn gương mặt tái mét của Billy. “Ồ, cô làm cháu sợ hả...”
“Không đâu. Không đâu cô,” Billy thốt lên. “Làm ơn kể tiếp đi cô.”
Cô Ingledew ngần ngừ tiếp, “Ờm, bất giác cô cảm thấy rằng chắc chắn ngày càng có nhiều vong hồn quỷ dữ... bị bỏ... ờ... vất vưởng”
“Giống như ai đó lật mồ mả của họ lên,” Charlie sốt sắng gợi ý.
“Đúng, kiểu như thế đó.” Cô khẽ cười. “Nhưng, thật sự thì, Charlie à, ý cô là có cái gì đó, hoặc ai đó, chắc hẳn đã đánh thức họ dậy.”
“Và đó chính là lý do khiến mặt đất rùng mình,” Billy chen vào. “Những con mèo lửa đã nói rằng chúng cần phải ngăn không cho người ta tìm ra cái gì đó.”
“Một chìa khóa, chắc chắn,” Ông cậu Paton nói, như là cố nhịn để khỏi ngáp.
Charlie biết thừa giọng nói ra vẻ chán nản của Ông cậu là để nhằm che giấu nỗi tò mò của ông, và nó hỏi, “Ông cậu không có ý ám chỉ chìa khóa thật đấy chứ?”
“Không, Charlie. Đúng hơn là một vật tạo tác, một vật mà sẽ nối kết một vong hồn cổ xưa với thế giới của chúng ta.”
Billy bất thình lình đứng dậy. “Thú vật có khả năng linh cảm sự việc, mọi người biết đấy. Chính vì vậy mà chúng bỏ đi hết. Nếu có cái gì đó từ quá khứ thức giấc, thì nó cũng mang những ký ức của nó theo cùng: những trận đánh nhau, những đám cháy, những tang thương và cả những tiếng kêu thét kinh hoàng. Hèn gì mà bọn thú đã cao chạy xa bay.”
“Cháu thấy tất cả những thứ này chẳng có ích gì cả,” Benjamin van vỉ. “Ý cháu là, có lẽ cháu sẽ không bao giờ, ôi, chẳng bao giờ tìm lại được con chó của cháu nữa.”
Viễn cảnh ghê hồn về một thành phố không muông thú đột nhiên cùng lúc hiện ra trước tất cả mọi người.
“Cứ như chịu một lời nguyền vậy,” Emma nhận xét.
Ông cậu Paton không bi quan như thế. “Mọi người ảm đạm quá đấy,” ông bảo. “Ta chắc chắn tình trạng này chỉ tạm thời thôi. Chút xíu con chuột kia tỉnh dậy và sẽ nói cho mọi người biết bọn chim thú đi đâu.”
Nhưng Rembrandt không thức giấc. Nó nằm lì trong túi Billy suốt ngày, chỉ có nhịp tim yếu xìu là dấu hiệu sự sống duy nhất của nó.
Vào Chủ nhật, gió bấc thổi bạt những đám mây mưa tuyết vào thành phố, và chỉ những kẻ ngốc mới ló mặt ra đường.
Charlie và Billy chơi trò chơi điện tử trong khi Rembrandt, nằm vùi trong giường Billy, vọt ra một tiếng ngáy lơ mơ của chuột. Một cơn gió bạo liệt bất ngờ hất rơi một viên đá phiến xuống đường, và Charlie chạy bổ ra cửa sổ. Ở đó kìa, nấp bên dưới cây dẻ trơ trụi, nó lại trông thấy cái bóng người áo vàng ấy. Nó chắc chắn đó là người mà nó đã thoáng thấy lủi vào một con hẻm hôm trước. Nhưng lần này, mặc cho mưa tuyết, nó đã nhìn thấy cô bé rõ hơn. Nếu nó không lầm thì cô này người Trung Hoa. Mặc áo khoác màu vàng nắng, có mũ trùm đầu lùng phùng. Và mái tóc đen xõa ngang vai được vén gọn khỏi mặt cô bé bằng chiếc cặp tóc hình con bướm sáng loáng.
Khi trông thấy Charlie, cô bé mỉm cười và giơ bàn tay lên vẫy. Charlie vẫy lại. Vừa thấy thế, nụ cười của cô bé liền nở rộng thêm, rồi cô chạy biến đi mất.
“Chờ đã!” Charlie gọi.
“Anh đang nói chuyện với ai vậy?” Billy hỏi.
“Cô bé kia,” Charlie bay vù ra khỏi phòng. Nó lao xuống lầu và chạy vút qua hành lang. Giật phăng cửa trước, nó gào toáng ra ngoài đường. “Đợi đã! Bạn là ai?”
Nhưng cô bé mặc áo màu nắng vẫn chạy cho tới khi khuất khỏi tầm mắt nó.
“Cô bé nào vậy?” Billy hỏi khi Charlie quay trở vào.
“Chỉ là một đứa con gái. Hình như nó biết anh, nhưng mà nó chạy đi rồi.”
Rembrandt thình lình ré lên một tiếng và bật dậy.
“Coi, nó dậy rồi này.” Billy nhặt con chuột lên và bắt đầu nói bằng thứ tiếng chút chít lảnh lót lạ lùng của chuột.
Rembrandt lộ vẻ như đang lắng nghe. Khi Billy im tiếng, con chuột đáp lại bằng vài tiếng chít yếu ớt.
Billy xụ mặt. “Nó bảo nó chả nhớ gì cả.”
“Cái gì! Nó không nhớ nó đi tới nơi lánh nạn bằng cách nào à, hoặc một tí gì cũng không nhớ à?”
Billy lại nói với Rembrandt. Con vật vẫn cứ đáp lại bằng giọng xìu xìu của một con chuột hết hơi.
“Nó có nhớ ra nơi đó trong đầu, nhưng lại quên mất tiêu cách đến đó rồi.”
“Thế thì làm sao tụi mình tìm được những con thú khác?” Charlie cật vấn.
“Không biết. Nhưng dù có muốn Rembrandt cũng không thể nào tự đi lại quãng đường đó lần nữa.” Billy nhấc một chân con chuột lên. “Trông này, đệm chân nó bị đau và bị mất một cái móng.”
Charlie quan sát bàn chân nhỏ téo tẹo của con chuột. Rõ ràng mấy ngón chân nát thê thảm. Charlie ảo não thả mình xuống giường và nghĩ đến Benjamin, chờ ngóng bảy tháng ròng để gặp Hạt Đậu, chỉ thấy con chó mà mình yêu thương đã biến mất. Charlie cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm cho việc này. Giá mà nó chăm sóc Hạt Đậu tốt hơn thì hẳn chú ta đã không bỏ đi.
“Đó không phải là lỗi của anh đâu, Charlie,” Billy nhỏ nhẹ nói. “Để đây thì nội Bone chắc đã giết Hạt Đậu hoặc tống nó vào trại chó hoang rồi. Với lại, ở quán Cà Phê Thú Kiểng nó vui lắm mà.”
“Anh thắc mắc không biết bọn chim thú có trở lại không,” Charlie đăm chiêu, “hay là chúng sẽ đi luôn.”
Buổi tối, ngoại Maisie lên cho Rembrandt ăn. Bà bảo bọn nhóc để bà giữ con chuột trong phòng bà, an toàn khỏi nội Bone, rồi thứ Hai bà sẽ đem nó về lại chỗ ông Onimous.
Trong khi đó Charlie và Billy phải đóng gói đồ đạc chuẩn bị cho một học kỳ mới. Hai đứa lầm lũi làm việc, gấp áo chùng xanh da trời, áo sơ-mi trắng, nhét sách vở, giày và vớ xuống dưới đáy giỏ, mỗi đứa mải mê đeo đuổi những suy nghĩ riêng của mình về học kỳ mới ở phía trước. Charlie tự hỏi liệu không khí trong Phòng Nhà Vua sắp tới sẽ ra sao, khi mà nơi đó vẫn thường nổ ra những trận chiến ngầm của bọn con cháu Vua Đỏ trong giờ làm bài tập về nhà. Vào cuối học kỳ trước, Charlie và bạn bè nó xem ra đã chiếm ưu thế hơn, nhưng nó biết hòa bình chỉ là tạm thời thôi. Năm đứa khác đã lộ mặt là những kẻ thù ghê gớm. Thể nào rồi cũng sẽ xảy ra xung đột lớn giữa đám hậu duệ của Vua Đỏ cho mà xem.
Sáng hôm sau, khi Charlie bước chân vào bên trong cánh cổng đôi cao lớn của Học viện Bloor, nó để ý thấy có nhiều đứa trẻ trông rất u uẩn. Luật im lặng không phải là nguyên nhân duy nhất của bầu không khí ảm đạm này. Những cái vai thõng thượt, những đôi mắt cụp xuống, những tiếng thở dài não nề buột ra trong khi lũ trẻ luồn lách qua đám đông và đi vào những phòng để áo khoác của khoa mình.
“Ối dào ôi, cơn mưa mới u ám làm sao!” Manfred Bloor xông bừa vào đám đông. “Có chuyện gì với cả đám tụi bay vậy? Cười lên coi, Emma! Gabriel Silk, trông mày như cả tuần bị ướt vậy. Tránh chỗ cho ta đi coi, thằng khờ.”
Manfred bất ngờ đứng sựng ngay sát mặt Lysander Sage. Charlie nhận thấy anh bạn mình giờ đã cao gần bằng thằng con trai ông hiệu trưởng. Lysander, mang vẻ mặt vô cùng cương quyết, lặng lẽ đứng nguyên tại chỗ.
“Tránh ra!” Manfred thét lác.
“Mày nói ‘làm ơn’ đi!”
Bọn trẻ xung quanh hai đứa lập tức lùi ra, bỏ lại Manfred và Lysander chình ình ngay chính giữa tiền sảnh. Bộ mặt xanh mét của Manfred đã chuyển sang đỏ lứ lự. Hắn quắc mắt nhìn Lysander, đôi mắt đen híp lại và lông mày nhướn nhíu thành một đường kẻ điên giận vắt trên cái mũi dài của hắn.
Charlie nín thở. Nếu Lysander không tránh ra mau, thì anh ấy sẽ bị thôi miên mất. Tất cả mọi người trong tiền sảnh đều nhận thức rõ mối nguy hiểm ấy. Nhiều đứa trong bọn chúng, kể cả Charlie, đã từng là nạn nhân của ánh mắt gây tê liệt của Manfred.
Tránh ra đi Sander, tránh ra đi, Charlie thầm thúc hối bạn mình.
Nhưng Lysander không tránh đường.
Manfred há bành miệng. Một tiếng hục kinh hồn phát ra. Hắn định dọa phạt cấm túc, nhưng, phì ra một tiếng thở khinh miệt, Lysander đã lướt đi khỏi và bước vào phòng để áo khoác xanh lá cây.
Charlie đứng ngây ra, kinh hãi trước cảnh mình vừa chứng kiến. Manfred đã không thôi miên hoặc không dọa nạt được Lysander, và giờ đây xem ra hắn đang bị sốc nặng. Con mắt trợn trừng ngó xa xăm, nỗi khiếp sợ và không tin nổi ịn trên gương mặt xương xẩu của hắn.
Billy giật áo chùng của Charlie. “Tụi mình nên ra khỏi đây mau,” nó thì thầm.
Lời cảnh báo của thằng bé đến quá trễ.
“Mày đang dòm cái gì thế hả, Bone?” Manfred quát, giờ thậm chí còn điên cuồng hơn trước.
“Không... em chỉ... em nghĩ mình đánh mất đồ.”
“Đồ ranh con.” Manfred quay ngoắt đi và đùng đùng tiến tới phòng Huynh Trưởng.
Charlie chỉ chực muốn hét gì đó bậy bạ sau lưng hắn, nhưng Billy đã lôi nó vào phòng để áo khoác xanh da trời. Cả hai được đón tiếp bằng tiếng trò chuyện ong ong o o. Ít nhất mười đứa trẻ bị mất thú cưng. Gabriel Silk trông còn ủ rũ hơn thường lệ nhiều. Hai mươi con trong số chuột cảnh của Gabriel biến mất, cùng với ba con vịt và con dê cưng mà mẹ nó nuôi.
“Vậy đâu tệ bằng mất chó,” Gwyneth Howells kêu van, mà nếu dùng cho đúng từ thì là than khóc.
“Mất mèo kinh khủng hơn mất chó nhiều,” một đứa con gái nhỏ quắt trong chiếc áo chùng rông gấp đôi thân mình cãi lại.
Fidelio Gunn đang lên dây đàn, tỉnh bơ không đoái hoài gì đến cuộc bàn luận xung quanh.
“Fido, thế con mèo của anh thì sao? Con Pudding thế nào?” Charlie ngồi xuống băng ghế bên cạnh bạn.
“Pudding á? Nó làm sao? Nó bình thường chứ sao. Dĩ nhiên, vẫn điếc như cây cột vậy.”
“Chắc anh đã nghe thấy gì rồi đó. Thú nuôi của tất cả mọi người đều...” Charlie chợt nín thinh vì sực nhớ ra. “À, con mèo của anh bị điếc.” Nó hình dung nhà của Fidelio, chật cứng tụi con nít học nhạc, đánh đàn bập bùng và gõ trống, hát hò và nện nhịp. Mái Ấm Gia Đình Gunn rung chuyển thật sự với âm thanh – nhưng mà, vào đêm khuya thì đâu có rung.
“Thế có gì đặc biệt diễn ra trong nhà anh vào đêm thứ Bảy không?” Charlie hỏi.
“Có.” Fidelio ngâm nga một nốt nhạc. “Anh Felix chia tay với ban nhạc của anh ấy. Họ ở trên gác mái nhưng vẫn ồn ào như địa ngục. Ba anh phải bảo họ khăn gói ra đi vào lúc một giờ khuya.”
“Thảo nào,” Charlie vỡ lẽ. “Chắc là Pudding chẳng cảm thấy gì hết.” Nó đứng lên, nhận thấy phòng để áo khoác giờ đã vắng tanh. “Đi thôi, tụi mình trễ giờ tập họp bây giờ.”
Trong giờ giải lao đầu tiên, bầu không khí u uất phủ trùm khắp sân chơi. Charlie ngạc nhiên sao mà có nhiều đứa nuôi hầm bà lằng nhiều loại thú cưng đến thế. Nó đi ngang qua một đám khổ chủ đang bàn tán về những con thú bị mất của chúng: chó, mèo, thỏ, thậm chí cả giông mào, rắn, và vượn mắt to đuôi dài. Bọn thú cưng đã đi đâu và tại sao? Liệu chúng có trở về không, và bao giờ thì về?
Charlie đinh ninh rằng rốt cuộc những nghi ngờ cũng sẽ lại đổ lên đầu những hậu duệ của Vua Đỏ. Bọn chúng chuyên bị đổ thừa cho những sự kiện quái lạ xảy ra.
Cô Chrystal, giáo viên dạy đàn, hân hoan vẫy tay với Charlie từ cửa vườn. “Trò khỏe chứ, Charlie?” Cô gọi. “Trông trò thất thần thế.”
“Em đang tìm Fidelio, thưa cô,” Charlie đáp.
“À. Trò ấy đang chờ học nhạc. Cô đến trễ mà.” Cô Chrystal thụt lại vào trong tòa nhà.
Charlie ghen tị với Fidelio. Anh ấy được một cô giáo trẻ nhất, xinh đẹp nhất trường dạy nhạc cho. Ai như Charlie phải học ông thầy Paltry già nua, bẳn tính và ho ra toàn mùi thuốc lá.
“Chào, Charlie!”
Charlie quay qua thì thấy Tancred và Lysander đang cùng nhau dạo bước bên mé sân. Tancred vẫy nó lại. Charlie chạy đến chỗ họ, nhưng nụ cười chào đón thường lệ của Lysander đã vắng bóng. Anh hớt hải ngó ra mông lung, như thể Charlie không có ở đó vậy.
“Hê, tuyệt quá trời, anh dũng cảm đương đầu với Manfred như thế hay quá,” Charlie nói đầy hào hứng.
Vẫn không cười. “Ừm.” Lysander nhìn lơ láo ra đằng trước.
“Con vẹt của nó đi rồi,” Tancred giải thích. “Em biết đấy, con Homer ấy mà.”
“Tất cả thú vật đều bỏ đi,” Charlie nói. “Chúng đi trong khi trời nổi bão tuyết hồi hôm thứ Bảy. Nhưng chúng ta sẽ đưa chúng trở lại, em biết chúng ta sẽ làm được mà.”
Tancred nói nhanh. “Về tuyết thì, Charlie à. Đó là do anh làm đấy. Anh làm ra tuyết, nhưng anh thề là anh không dính líu đến thú thiếc gì cả.”
“Anh!” Charlie kêu lên. “Hèn chi. Em thấy thứ tuyết ấy nó quái quỷ sao sao đó.”
Tancred trông bộ hơi phật ý. “Anh thật sự nghĩ mình đã làm cực tốt đấy chứ.”
“Nhưng tại sao phải đổ tuyết?” Charlie hỏi.
“Mấy con mèo lửa đến hối thúc anh làm vậy đấy.” Tancred quơ nguyên bàn tay quào mớ tóc vàng cứng queo của mình. “Anh cũng không biết tại sao.”
“Chúng cũng đến gặp em nữa,” Charlie nói, gần như với riêng mình thì đúng hơn. “Có lẽ chúng đã cố ngăn để cho người ta khỏi tìm ra cái gì đó, và nếu có tuyết thì sẽ đỡ hơn một chút, nhưng có vẻ như cuối cùng kẻ nào đó cũng đã lấy được một vật. Cái vật ấy nối kết thế giới của chúng ta với một thứ như là... vong hồn cổ xưa.” Charlie thở rít vào một hơi.
Hai anh lớn dòm sựng vào Charlie, vừa như bị hút hồn, vừa pha lẫn ngờ vực.
“Sao nữa,” Lysander giục.
“Ừm, khi việc đó xảy ra, mặt đất rùng mình. Ít nhất đó là điều mà con Rembrandt nói với Billy. Muông thú cảm nhận được cái rùng mình đó và tất cả bọn chúng hoảng sợ đến nỗi chạy trốn sạch.”
“Đi đâu?” Lysander hỏi dồn. “Con vẹt của anh đi luôn rồi và anh muốn nó trở lại. Anh cần nó.”
Charlie nhún vai chịu thua. “Rembrandt nói tất cả chúng đã băng qua sông. Nó đã trở về, nhưng giờ thì nó không thể nhớ nổi nó đã đi tới... tới nơi nào đó bằng cách nào.”
“Đồ chuột vô dụng,” Lysander gầm gừ.
Charlie thất vọng khi thấy một người cứng cỏi như Lysander mà lại quá phụ thuộc vào một con vẹt như vậy. Nó định lên tiếng bênh vực Rembrandt thì tiếng tù và đã rúc lên báo hiệu giờ giải lao kết thúc, và bọn con trai cắm đầu về lại học viện.
Trong lúc đám đông trẻ con chen chúc nhau qua cửa vườn, Charlie kinh ngạc thấy một dáng quen quen đang bước đi lẫn trong bọn chúng. Đó là mẹ của Benjamin, cô Brown.
“Mẹ của bạn em kìa, Charlie.” Tancred nhận xét. “Benjamin có học ở Học viện Bloor không?”
Charlie lắc đầu. “Không. Đáng ra nó phải nói cho em biết chứ. Cô ấy đang làm gì ở đây nhỉ?”
“Cô ấy là thám tử tư, vì vậy chắc chắn cô ấy đang điều tra gì đó,” Lysander nhận định. “Hây, có lẽ cô ấy đến để tìm hiểu vụ thú vật biến mất cũng nên. Bảo đảm người ta nghĩ là tại một đứa trong đám tụi mình.” Anh phá lên cười chua chát.
Cô Brown bất thình lình ngoái lại sau và bắt gặp ánh mắt của Charlie. Cô vội quay đi và bước qua cửa.
“Cô ấy không muốn tỏ ra là biết em,” Charlie nói vẻ nghi hoặc.
“Em nằm trong diện khả nghi, Charlie Bone,” Tancred nói với nụ cười giễu cợt. “Gặp lại em sau nhé, kẻ làm bốc hơi bọn thú.” Anh bay đuổi theo Lysander, lúc này đã sải bước đi đằng trước.
“Cái...” Charlie đứng há hốc mồm ra.
Tancred nói đùa thôi, dĩ nhiên, nhưng việc mẹ thằng bạn thân nhất của ta cố ý tránh né ta thì không phải là đùa rồi.
“Biết ngay mày là đứa cuối cùng mà,” Asa Pike, huynh trưởng, cười khẩy nhìn Charlie từ bên trong tiền sảnh. “Mười giây nữa là tao khóa...”
“KHÔNG!” Charlie phóng bay qua bậc cửa và dừng kít lại ngay bên cạnh Asa.
“Mày nghỉ Giáng sinh vui nhỉ?” Luôn có vẻ khinh miệt ẩn sau mọi lời nhận xét của Asa.
Charlie chọn cách lờ tịt sự miệt thị đó đi và đáp, “Tuyệt lắm, cảm ơn. Còn anh?”
Bộ mặt như con chồn của Asa co rúm lại. Nó vắt một mớ tóc mỡ nhờn nhợn màu cam ra sau tai và nói, “Đương nhiên. Xéo ngay không mày trễ giờ học bây giờ.”
Charlie hấp tấp băng qua tiền sảnh, bỏ mặc Asa đóng cửa vườn. Có cái gì đó bất thường trong hành vi của thằng huynh trưởng này. Hình như hắn sợ sệt và bất an. Asa là học sinh lớn nhất trong trường và đáng lý ra hắn phải là thủ lĩnh nam sinh, nhưng vì thi trượt tất cả các môn, hắn đành chịu chuyển chức đó vào tay Riley Burns, một kẻ hợm hĩnh, tự cho mình biết tuốt mọi sự trên đời và là một nhà vô địch điền kinh.
Phải chăng sự vụ nhục nhã đó giải thích cho nỗi hoảng hốt của Asa? Charlie không chắc. Và rồi một ý nghĩ loé lên trong đầu Charlie. Ai cũng biết Asa có thể thay đổi hình dạng. Mỗi khi trời sụp tối, hắn có thể trở thành một sinh vật giống như sói, lưng cong, mõm dài. Có lẽ, giống như bao con thú khác, hắn cũng đã cảm nhận được khi mặt đất rùng mình. Charlie định bụng sẽ quan sát thằng huynh trưởng trong giờ làm bài tập, khi chúng ngồi cùng bàn trong Phòng Nhà Vua.
Tối hôm đó, Charlie là đứa đầu tiên đi qua cánh cửa đôi màu đen vào Phòng Nhà Vua. Nó nhìn quanh căn phòng hình tròn, mái trần cao, với những bức tường cong dựng kín những kệ sách bọc da. Chỉ chừa lại không gian cho một bức tranh duy nhất: bức chân dung Vua Đỏ khổng lồ lồng khung mạ vàng.
Charlie thích ngồi chỗ mà nó có thể ngắm bức tranh, và nó vừa bày xong sách vở lên chiếc bàn tròn thì những đứa trẻ được ban phép thuật khác cũng lục tục kéo đến.
Đầu tiên là Joshua Tilpin, một thằng bé loắt choắt, mặt như mặt chuột, tai to và răng xộc xệch. Như thường lệ, người nó đính đầy nhóc bụi phấn, giấy, lá và cành khô. Không phải chỉ sinh từ tính như một thỏi nam châm thông thường, Joshua còn có khả năng thu hút được nhiều thứ khác nhau. Tiếp theo là chị em sinh đôi siêu năng, Idith và Inez, rồi tới Billy Raven len lén đi qua cửa. Khép nép đi về phía Charlie, Billy thì thào. “Em có điều muốn nói với anh.”
Nhưng Charlie hầu như không nghe thấy Billy nói gì. Nó đang mải nhìn chong chong vào bức chân dung nhà vua. Nó rành bức tranh này lắm. Nó vẫn thường ngắm nghía gương mặt đen, với những đường nứt mờ hay gặp ở các bức tranh cổ. Nhà vua đội vương miện vàng thanh mảnh và mặc áo chùng đỏ, những nếp gấp sắc nét trên áo sậm lại và xỉn màu năm tháng. Charlie luôn ước ao có ngày đi vào được bức tranh và rảo bước trong thế giới xa xôi của Vua Đỏ, nhưng luôn có gì đó ngăn cản nó. Một cái bóng đậm đứng sau nhà vua, một bóng hình bí hiểm khóa chặt mọi cố gắng của Charlie hầu tiếp xúc với tổ tiên mình. Nhưng bây giờ...
Mắt Charlie trợn căng lên. Choáng váng trong cơn sốc, nó túm chặt lấy cái lưng ghế. Cái bóng đã dịch chuyển. Cái bóng đó mờ thôi, nhưng Charlie biết rành bức tranh đến nỗi cái bóng rõ mồn một đối với nó. Trước đây cái bóng chỉ là một dải mù sương, đứng đằng sau nhà vua. Giờ thì hình như cái bóng đã lớn hơn và rõ hơn, như thể nó đã bước một bước tới trước.
“Cái bóng,” Charlie nín thở.
Chồm sát lại gần nó, Billy thì thào, “Em cũng định nói cho anh biết về cái bóng đó.”