Cha của Gabrielle cực kỳ ngượng ngùng vào cái ngày mà ông giải cứu nàng. Sau bao năm, nàng và mẹ nàng chẳng bao giờ biết được, chẳng bao giờ ngờ được rằng ông đang sống một cuộc sống liều lĩnh như thế. Nathan Brooks - một tên cướp biển. Điều đó mất cũng khá nhiều thời gian để làm quen.
Bây giờ ông trông rất khác. Thực sự khó khăn để nhận ra ông. Bất cứ khi nào ông đến Anh để thăm nàng, ông đều tắm rửa sạch sẽ, cạo râu, và cắt mái tóc dài mà ông đang chưng ra bây giờ. Đó là người cha duy nhất mà nàng biết, và nàng nghĩ mình giống ông, ít nhất là trên phương diện màu sắc của mình. Tóc ông đen y như tóc nàng, và đôi mắt ông cũng là màu xanh nhạt. Mặc dù, nàng không thừa hưởng chiều cao của ông, điều đó thật may mắn, bởi ông là một người đàn ông cao, hơn feet một chút (nghĩa là cao hơn m), trong khi nàng cao bằng mẹ khoảng feet inches(nghĩa là khoảng m). Nhưng người đàn ông này chẳng có chút gì giống với người cha mà nàng đã biết và yêu mến. Ông thực sự trông lòe loẹt trong bộ quần áo của mình, và trông chẳng khác gì tất cả những tên cướp biển khác mà nàng gặp. Ông thậm chí còn đeo một cái khuyên vàng ở một bên tai nữa!
Ông nhanh chóng tháo khuyên tai ra. Ông trông thật xấu hổ làm sao khi bị nàng tìm ra bí mật của mình.
Một vài giờ sau khi họ ra khỏi cảng, Gabrielle nhận ra rằng tàu của cha nàng đã đi chậm lại. Nàng đi lên boong thuyền để xem chuyện gì đang xảy ra và đụng ngay phải Pierre Lacross! Thuyền của hắn đang bơi sóng ngang bên cạnh thuyền của cha nàng.
Nàng chưa kể về hắn với Nathan. Vẫn chưa có nhiều thời gian để họ nói chuyện, và bên cạnh đó, nàng vẫn đang giải quyết cơn sốc của mình về việc khám phá ra rằng cha mình là thành viên của hiệp hội cướp biển. Nhưng ít nhất thì nàng cảm thấy an toàn sau khi được cha cứu và chắc chắn ràng nàng sẽ chẳng bao giờ thấy những gã như Pierre nữa.
Nhưng giờ ngay tại đây, hắn đang ở trên con tàu The Crusty Jewel, đứng ngay cạnh cha nàng và nói chuyện với ông như thể họ là những người bạn cũ. Nàng dần hiểu ra họ ít nhất là những người quen cũ, vì mỗi người là một trong vị thuyền trưởng cùng chia sẻ khu căn cứ đó.
Cái nhìn chằm chằm lạnh lẽo, đầy thèm muốn của Pierre ngay lập tức ghim chặt nàng xuống boong tàu. Nỗi sợ hãi nhanh chóng quay trở lại với nàng. Nàng chắc hẳn đã tái mặt đi bởi vì cha nàng đã đến bên cạnh và vòng cánh tay bảo vệ quanh nàng.
“Mày giương buồm đem cô ta đi nhanh đấy, mon ami" (tiếng Pháp ‘mon ami’ nghĩa là ông bạn), Pierre nói, không chút dấu giếm về lý do vì sao hắn ở đây. “Tao đã định sẽ mua cô ta cho mình”.
“Nó không phải để bán” Nathan nói.
“Tất nhiên là cô ta có. Mày đã trả tiền cho cô ta. Tao sẽ trả mày nhiều hơn. Mày sẽ được lời, và chúng ta sẽ cùng vui vẻ.”
“Mày không hiểu rồi. Nó là con gái tao.” Nathan lạnh lùng nói.
Pierre trông có vẻ ngạc nhiên. Thật căng thẳng, sau một lúc im lặng hắn cân nhắc tình huống này, đôi mắt hắn hết nhìn nàng rồi lại nhìn cha nàng. Hắn chắc hẳn đã nhận ra rằng hắn không thể có nàng mà không gây nên một trận chiến, và quyết định không thực hiện việc đó; hắn cười và phàn nàn về vận may thối tha bằng cái mà với hắn có thể là tông giọng thân thiện tốt bụng nhất mà hắn có thể tạo ra. m điệu hắn như thể cam đoan với cha nàng rằng hắn biết Gabrielle đã ra khỏi tầm với của hắn, nhưng Gabrielle không bị lừa. Nàng cảm thấy Pierre chỉ coi cuộc thảo luận với cha nàng như một sự trì hoãn tạm thời. Hắn giương buồm đi, nhưng nàng rất sợ rằng đó không phải là lần cuối cùng nàng nhìn thấy hắn.
Margery chẳng ngại ngùng gì khi thể hiện sự phản đối hoàn toàn của bà với nghề nghiệp của cha nàng. Với tất cả những cái nhìn kinh tởm mà bà dành cho ông trong những ngày đầu tiên, Gabrielle nhanh chóng nhận thấy nàng đang bảo vệ ông. Trên tất cả, ông là cha nàng. Việc ông là một tên cướp biển không có nghĩa là nàng có thể ngừng yêu ông.
Nàng và cha chẳng có cơ hội nói chuyện kể từ khi họ đặt chân tới cảng nhà ông tại St. Kitts, một hòn đảo nằm ở trung tâm đường hàng hải của ông. Ông có một ngôi nhà nhỏ ở đó bên bờ biển, cách thị trấn đủ xa nơi mà ông có thể thả neo tàu ở ngoài khơi hay chèo thuyền vào nếu ông phải làm vậy. Nhưng ông không bao giờ coi St. Kitts là một cảng Anh quốc và cả chuyện ông là người Anh – người không một lần bắn vào những con tàu Anh. Còn tàu của Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, tất cả chúng đều trong cuộc chơi công bằng.
Căn nhà ông thật là độc đáo, như một ngôi nhà đẹp ở nông thôn nước Anh được sửa lại cho phù hợp với thời tiết ấm áp, với những căn phòng rộng thoáng đãng và những cánh cửa sổ rộng mở để đón bất cứ ngọn gió thổi từ phía nào đến. Những sàn gỗ cứng bóng loáng, những cây cọ trong chậu lớn, những tấm màn treo rủ xuống thành dải mỏng, những thứ ấy được thêm vào một ít màu sắc địa phương, nhưng cách thiết kế đồ đạc thật tao nhã và khá “Anh”, tất cả mọi thứ đều được giữ sạch sẽ bởi một đội ngũ nhỏ người giúp việc, những người sẽ trông coi ngôi nhà khi ông không ở cảng.Những bức tranh trên tường thật tao nhã và gợi nhớ đến những bức tranh khác mà mẹ nàng sưu tầm làm nàng cảm thấy như ở nhà.
Phòng ngủ của nàng lớn hơn nhiều so với cái mà nàng có ở nước Anh. Chiếc tủ quần áo cũ trong phòng là một món đồ cổ được làm từ gỗ anh đào và trám ngà voi trên cánh cửa. Chiếc giường có mái che với những cây cột được chạm trổ và được trang trí bằng cái màn trắng mỏng có lưới (sheer white mosquito netting – chắc là giống cái màn chống muỗi ở VN mình). Và tầm nhìn ra biển và hải cảng từ khoảng cách này trên ban công của nàng rất đẹp.
Phòng ăn cũng quan sát được ra biển từ trên cao, và bữa ăn tối hôm đó là món cua nhồi địa phương rất ngon với những cây chuối lá và cà chua cay, uống kèm với rượu Pháp nguyên chất. Làn gió dịu nhẹ, thơm ngát ùa vào từ những cửa sổ đang mở, cũng như âm thanh dịu dàng của sóng biển. Nàng cảm giác rằng mình sẽ thích sống ở đây. Nhưng nó không có nghĩa là Margery cũng thích. Bà giành cả bữa ăn tối để liếc nhìn những người hầu và khăng khăng sẽ bắt chuyến tàu đầu tiên trở về nhà. Ngay sau khi Margery đem tâm trạng cáu bẳn của mình lên giường, Nathan đưa Gabrielle ra biển đi dạo để nàng có thể hỏi tất cả những câu hỏi chạy qua tâm trí nàng. Ông không thấy hối tiếc với nghề nghiệp mà mình đã làm, nhưng ông giải thích vì sao ông lại chọn nó.
“Cha là một thủy thủ trẻ trên một chiếc tàu buôn khi bọn cha rơi vào một cơn bão,” ông bảo nàng “Chỉ có một ít người trong số chúng ta sống sót. Chúng ta đã trôi nổi mất bao ngày khi những tên cướp biển tìm thấy.”
Nàng nghĩ rằng nàng đã hiểu “Thế nên cha thấy mang ơn họ vì họ đã cứu cha?”
“Cha sẽ không gọi chính xác đó là một cuộc giải cứu đâu, Gabby. Họ chỉ đơn thuần là thiếu người thôi.”
“Nếu không thì họ sẽ lướt qua và không dừng lại” nàng đoán.
“Chính xác. Và bọn ta được cho lựa chọn, gia nhập hoặc là quay trở lại biển. Vì thế cha đã chọn gia nhập.”
“Nhưng cha không cần phải ở với chúng đúng không? Khi tàu cập cảng, cha có thể tự đi con đường của mình.”
“Nhưng chúng ta không có cảng, ít nhất thì đã trong một khoảng thời gian dài chẳng có cái nào thuộc về cướp biển cả. Trong thời gian chúng ta ở đó, ừm, thật lòng mà nói, cha thích cuộc sống đó. Cha thấy nó thật thú vị. Vì thế cha có một vài lo ngại về việc ở lại, và cha làm việc theo cách của mình cùng với cả đội cho đến khi cha có một con tàu của riêng mình.”
“Đó là trước hay sau khi cha gặp mẹ?”
“Trước.”
“Và mẹ chẳng bao giờ nghi ngờ?”
“Ít nhất là không”
“Cha đang làm gì ở nước Anh khi cha gặp bà?”
Ông cười toe toét vào điều đó “Săn tìm kho báu. Thuyền trưởng của con thuyền đầu tiên đã làm cha say mê nó.”
“Săn tìm kho báu ở nước Anh?” nàng nói trong sự ngạc nhiên.
“Không. Cha đã tới đó để tìm một mảnh ghép thất lạc của một trong những tấm bản đồ của mình. Cha đã mất nhiều năm mới hay gia đình mẹ con sở hữu miếng ghép cuối cùng đó. Cha cưới bà để thuận tiện cho việc tìm kiếm của mình.”
“Vậy cha không yêu bà sau tất cả?”
Ông hơi bối rối “Bà ấy là một người phụ nữ ưa nhìn, nhưng không, tình yêu duy nhất của cha là biển cả, con gái ạ. Và bà ấy chỉ hạnh phúc khi có một người chồng. Bà ấy bắt đầu buồn phiền về việc đó, trải qua bao mùa ra mắt rồi mà vẫn chưa lấy được ai. Cha chẳng tới được tiêu chuẩn của bà ấy, tất nhiên, và không thể đòi hỏi dòng máu cao quý như bà ấy, nhưng sự chưng diện của ta đã thay thế, nếu ta nói vậy về mình. Nhưng ta nghĩ bà ấy đã làm cả hai chúng ta ngạc nhiên khi chấp nhận lời cầu hôn của ta. Bông hoa phai tàn rất nhanh (The bloom wore off rather quickly – bọn mình nghĩ câu này có thể hiểu theo ý, một là giải thích vì sao mẹ Gabby đồng ý lấy cha cô ấy, vì “với phụ nữ thì tuổi thanh xuân-bloom rất chóng phai tàn”, hai là cha cô ấy nói “thời kỳ êm ấm vui vẻ giữa hai chúng ta nhanh chóng qua đi”). Bà ấy hẳn rất mừng khi thấy ta ra khơi.”
Điều đó chắc chắn giải thích cho rất nhiều thứ. Gabrielle luôn tự hỏi cái gì đã kéo cha mẹ nàng lại gần nhau, vì họ gần trông như là người lạ với nhau bất cứ khi nào ông về thăm. Điều đó không xa so với sự thật. Nàng có cảm giác rằng trong khi Nathan sử dụng cuộc hôn nhân cho mục đích của mình thì Carla cũng vậy. Bà muốn một đứa con và bà cần một người chồng để có nó. Không một lần, mặc dù, mặc dù qua bao nhiêu năm, nàng nghi ngờ về tình yêu của mẹ. Thậm chí khi cuối cùng, Carla trở nên quá đau khổ vì mất người yêu, bà cũng không bao giờ trút sự đau khổ đó lên con gái mình.
“Cha đã tìm được mảnh ghép bị mất của tấm bản đồ chưa?” nàng hỏi một cách tò mò.
“Chưa,” ông lầm bầm “Cha đã ở lại quá lâu để tìm nó. Con được thụ thai trước khi cha rời đi, và con là lý do duy nhất để cha quay lại sau bao năm. Mặc dù vậy cha chẳng bao giờ hối tiếc về việc đó. Con là ánh sáng rực rỡ của đời cha, Gabby, niềm tự hào thực sự của cha.Cha xin lỗi về chuyện của mẹ con, và cả chuyện con đã phải trải qua chuyện đó một mình. Và rồi con thật dũng cảm khi mạo hiểm đến đây tìm cha.”
“Con nghĩ rằng mình chẳng còn lựa chọn nào khác.”
Và họ dừng lại để nhìn chằm chằm vào đại dương dưới ánh trăng, những cơn sóng đang vỗ gần dưới chân họ. Một cơn gió nhẹ ấm áp vờn trên riềm áo nàng. Cánh tay ông trượt lên vai nàng, kéo nàng lại gần.
“Cha cũng xin lỗi về việc con bị bắt giữ, nhưng trên tất cả, cha không xin lỗi về việc con đang ở đây với cha đâu, con gái. Đây là nơi cha luôn muốn con ở.”
Những giọt nước hình thành trong mắt nàng khi nàng vòng tay mình quanh ông để ôm ông trở lại. Nàng đã về nhà, cuối cùng, thực sự đã về nhà.
Gabrielle thấy cuộc sống của mình ở St. Kitts rất vui vẻ. Mỗi buổi sáng nàng thức dậy trong một ngày đầy nắng và những cuộc phiêu lưu. Trước sự nài nỉ của cha, nàng học bơi và thực hiện điều đó gần như hàng ngày trong dòng nước xanh ấm áp của Caribbean. Nàng cũng cưỡi con ngựa mà ông mua cho nàng dọc theo bãi biển, thỉnh thoảng không về nhà cho đến lúc nhá nhem tối để thưởng thức cảnh nguy nga tráng lệ khi mặt trời lặn.
Nàng thích ở đây, mặc dù đôi lúc, cái nóng trở nên ngột ngạt. Nhưng tất cả đều mới mẻ với nàng, và ở cái tuổi còn trẻ, nàng thấy tất cả chúng đều thật đáng say mê. Thức ăn đã khác, thời tiết chắc chắn càng khác, dân địa phương thì màu mè và thân thiện. Những trò giải trí, thậm chí là nhảy trên đường phố, chẳng có thứ nào làm nàng liên tưởng đến việc quay trở lại quê hương Anh quốc.
Nàng thậm chí còn phát hiện ra rằng nàng thích đi thuyền, và bây giờ khi đã thân quen với việc đó, nàng thường xuyên ra khơi với cha khi ông săn đuổi những đầu mối tới một trong số những bản đồ kho báu của ông. Nàng hiểu ra tại sao ông tiếp tục cuộc sống mà mình đã từng. Ông dễ dàng có nhiều trải nghiệm vui vẻ và phiêu lưu chỉ trong một tuần lễ hơn một số người trải nghiệm suốt cả cuộc đời. Nàng có thể không tán thành những hành vi cướp biển của ông, nhưng nàng bắt đầu nhìn chúng dưới góc độ khác, đặc biệt là sau khi nàng biết được rằng một số con tin mà Nathan tiếp nhận có thể không bao giờ trở về gia đình mình nếu Nathan không can thiệp, với vai trò của người mô giới, như vai trò của ông lúc này. Và ông cũng không còn bắt giữ những con tàu nữa. Ông dùng hầu hết thời gian của mình để săn lùng kho báu.
Nàng thậm chí còn ở cùng ông khi ông thực sự xác định được vị trí cái mốc trên một trong những tấm bản đồ và cuối cùng có thể khoanh tròn cái chấm màu đỏ sáng, chỉ ra nơi kho báu bị che dấu. Thật là sự kích động vô cùng khi quan sát ông cùng với người của mình đào bới cái điểm trên hòn đảo nhỏ đó và sau đó tìm thấy một cái rương lớn được chôn ở đấy. Nhưng khá là thất vọng khi nhìn họ mở ra và thấy nó trống rỗng. Mặc dù vậy, đó không phải là điều được trông đợi cho lắm. Những tấm bản đồ mà ông thu thập suốt bao năm đã qua tay biết bao nhiêu người trước khi chúng thuộc quyền sở hữu của ông. Hầu như những tấm bản đồ của Nathan đều khó giải mã bởi vì mỗi người chủ của kho báu – những người vẽ ra tấm bản đồ này, sử dụng rất ít cột mốc, chỉ vừa đủ để dẫn họ trở lại của cải cướp được của mình, nhưng không đủ cho bất kỳ ai khác có thể thu thập lại toàn bộ bản đồ và lần tìm ra chúng. Và một số bản đồ của ông thì bị xé rách thành các phần để chúng gần như không thể tìm ra, các mảnh ghép được dấu ở những nơi khác nhau, hoặc được trao cho những thành viên khác nhau trong gia đình, có nghĩa là chúng bị thất lạc biết bao năm, vì thế một số người thậm chí không biết mình đang sở hữu cái gì. Cha nàng có hai tấm bản đồ đang bị thiếu những mảnh ghép.
Margery chẳng bao giờ bắt được con tàu nào quanh trở về nước Anh như bà đã thề là bà sẽ vào cái ngày đầu tiên họ đến St. Kitts. Mặc dù bà không thích ứng tốt lắm với cái nóng trên đảo, nhưng bà vẫn ở lại vì bà không thể để lại Gabrielle một mình với “những tên cướp biển”. Bà đã nhận ra rằng một số tên cướp biển khá tốt, tuy nhiên, ít nhất là các thành viên trong thủy thủ đoàn của Nathan. Họ đều nhận ra điều đó. Gabrielle thậm chí còn coi một số là những người bạn thân thiết. Sự thực đáng ngạc nhiên là hầu như tất cả thành viên trong đoàn thủy thủ của Nathan đều khá nghiêm chỉnh và chính trực, mặc dù có lẽ quá phóng khoáng và yêu phiêu lưu để phù hợp với cái xã hội thông thường.
Nathan đã làm khá tốt việc che chở nàng khỏi những gã đàn ông đáng kinh tởm, như Pierre Lacross, mặc dù nàng chẳng bao giờ mất đi nỗi sợ hãi về người đàn ông đó, không, thậm chí sau khi nàng nghe tin rằng ông ta đã có quan hệ với một nữ cướp biển tên là Red, và nàng đã một lần nữa lại nhìn thấy hắn, ở biển, khi nàng cùng cha đang săn lùng kho báu. Pierre vừa mới bắt giữ một con tàu. Đó là khi nàng biết được rằng nếu cha nàng không cứu những con tin ra khỏi tay hắn, hắn sẽ giết họ. Và trước khi Pierre rời khỏi, hắn cố lại gần nàng một lúc và thì thầm, xa khỏi tầm nghe của cha nàng, “Đừng nghĩ rằng ta quên nàng, thú cưng của ta. Sẽ tới thời điểm của chúng ta.”. Đó có lẽ là vết đen duy nhất trên tấm thảm không tỳ vết của những trải nghiệm tuyệt vời mà nàng tận hưởng khi sống với cha trên đảo. Nàng biết nó sẽ không kéo dài mãi mãi. Cuối cùng nàng sẽ lấy chồng, thậm chí là mong đợi nó. Nàng thiết tha mong muốn những gì mà nàng đã bỏ lỡ khi còn là một đứa trẻ có một gia đình ổn định đầy tình yêu thương - nơi mọi người cùng gắn bó với nhau. Nàng thậm chí đã có một vài sự tán tỉnh từ những anh chàng thủy thủ đẹp trai, nhưng họ luôn luôn khởi hành đi, điều đó là tốt bởi trong suốt một vài năm đầu ở St. Kitts, tất cả những gì nàng thực sự muốn làm là giành thời gian với cha và lấy lại bao năm đã mất khi họ bị chia xa.
Trong gần ba năm nàng cảm thấy như vậy, cho đến khi Charles Millford trở về sau chuyến du học. Cậu con cực kỳ đẹp trai của một gia đình tử tế người Anh – gia đình sở hữu một nông trường đường trên đảo, Charles có vẻ khá quan tâm đến nàng cho đến khi anh phát hiện ra cha nàng là người thế nào và điều đó đủ thô lỗ để giải thích tại sao anh không thể tiến xa hơn sự quen biết giữa họ. Đó không phải là do Nathan là một tên cướp biển! Không ai ở St. Kitts biết điều đó. Đó là do họ coi ông như một người bình thường. Gia đình Millford đủ kênh kiệu để cho rằng nàng không đủ tốt cho con trai duy nhất của họ vì điều đó.
Gabrielle đã phải lòng Charles khi anh lạnh nhạt với nàng, nhưng nàng giấu khá tốt việc đó. Nàng không muốn để cha biết rằng người đàn ông duy nhất làm nàng nghiêm túc suy nghĩ tới việc kết hôn sẽ không chấp nhận nàng chỉ vì ông.
Nhưng đó là một hòn đảo nhỏ. Nathan đã bằng cách nào đó biết chuyện. Nàng đã nên đoán trước được khi thấy tâm trạng trầm ngâm suy nghĩ của ông, điều mà chẳng hề giống ông chút nào, nhưng sau khi ông chẳng nói gì cả, nàng đã miễn cưỡng tự mình hỏi ông. Khi nàng đề cập đến việc nàng sẽ sớm tới tuổi trưởng thành thì Ohr, một trong số những thủy thủ trung thành của Nathan nghe lỏm được và kêu lên “Vậy mà nó còn chưa kết hôn sao?”, câu nói khiến cha nàng tái mặt và nàng bị gọi tới thư phòng của ông tối muộn đêm đó.
Sau phản ứng của cha về lời nhận xét của Ohr, nàng đoán ông sẽ phải nói với nàng về triển vọng trong hôn nhân của nàng trên đảo. Nàng không bao giờ có thể đoán được quyết định ông đưa ra.
Ngay sau khi nàng ngồi đối diện ông ở phía bên kia chiếc bàn, ông nói “Cha sẽ gửi con trở lại nước Anh”.
Phản ứng của nàng ngay tức thì. Nàng chưa từng nghĩ tới chuyện đó. “Không”.
Ông cười với nàng. Đó là một nụ cười buồn. Ông không thử tranh cãi với nàng, bởi vì ông muốn nàng vui, nàng luôn luôn thắng bất cứ vụ bất đồng ý kiến nào giữa họ.
Ông giải thích đơn giản “Con biết mẹ con và ta là một cặp không xứng đôi. Mẹ con thuộc tầng lớp quý tộc, còn ta lại thuộc tầng lớp khác. Ta chẳng xấu hổ gì về điều đó, nói cho con biết, ta chẳng quan tâm mình được nuôi dạy ở đâu. Ta lớn lên ở Dover. Cha mẹ ta là những người chăm chỉ, tốt bụng. Nhưng mẹ con chẳng bao giờ nhìn theo cách đó, và dựng nên những câu chuyện hoành tráng về nguồn gốc xuất thân của ta và lý do tại sao ta hiếm khi về nhà. Bà ta thậm chí không muốn bạn bè mình biết rằng ta làm nghề buôn bán, cho dù chuyện đó cũng chẳng phải sự thật, nhưng cũng là những gì bà nghĩ.”
“Con biết tất cả mà, cha.”
“Ừ, cha biết, nhưng con thấy đó, con có dòng máu quý tộc được thừa hưởng từ mẹ con. Tuy nhiên, chẳng ai sẽ tin vào điều đó trong cái thế giới này. Và bên cạnh đó, hôm nay ta đã nhận ra những thứ mà ta từ chối con khi giữ con lại bên ta, mùa vũ hội ở London, tất cả những buổi khiêu vũ, tiệc tùng, như một quý cô trẻ tuổi của tầng lớp thượng lưu có thể mong đợi – tất cả những thứ mà mẹ muốn cho con, bao gồm cả một người đàn ông tử tế làm chồng.”
Nàng hạ thấp đầu xuống “Cha biết về Charles Millford, phải không ạ?”
“Đúng thế.” Ông nói một cách trầm lặng “Ta thậm chí còn giễu cợt với cái ý tưởng gọi lão già Millford ra ngoài.”
Đầu nàng ngẩng phắt lên “Cha không làm vậy chứ!.”
Ông cười toe toét “Thực ra là ta đã, nhưng ta nghĩ ta phải hỏi con đầu tiên trước liệu con thực sự yêu thằng bé đó không.”
Nàng cân nhắc một lúc rồi nói nói thêm “Không hẳn. Con chắc là con có thể, nhưng thật lòng là, con nghĩ con chỉ vừa mới sẵn sàng để yêu, và Charles là người đàn ông đầu tiên con gặp ở đây khiến con cảm giác anh ta sẽ là một người chồng tốt.”
“Dù nó có hay không, Gabby, nghĩ về những thứ con vừa mới nói. Trong tất cả thời gian ở đây, nó là đứa duy nhất con đã từng cân nhắc về hôn nhân. Đó là một lựa chọn kinh khủng, con thân yêu, khi con nên có hàng tá gã đàn ông để lựa chọn, và về Anh con sẽ có nó. Không, con sẽ trở về để tiếp nhận khoản thừa kế của con, có lễ ra mắt chính thức mà mẹ con từng mong ước, và tiến hành tìm một người chồng thích hợp.”
Nàng biết là ông đúng, rằng nàng không có những lựa chọn khác. Nhưng một ông chồng người Anh nghĩa là phải sống ở Anh thêm một lần nữa và nàng ghét suy nghĩ phải từ bỏ cuộc sống thôn dã của mình ở đây. Mặt khác, nếu nàng thực sự may mắn nàng sẽ tìm được một người Anh đủ phiêu lưu để dời đến Caribbean vì tình yêu. Khi đó mọi chuyện sẽ trở nên hoàn hảo và thậm chí còn làm nàng thấy vui thích về cuộc hành trình.
“Cha nói đúng” nàng nói “Con muốn gặp ai đó con có thể yêu và kết hôn, nhưng làm thế nào con thực hiện điều đó ở Anh mà không có người giới thiệu vào cái xã hội đó cơ chứ?”
“Đừng lo lắng, con yêu. Ta có thể không có những mối quan hệ như mẹ con, nhưng có một người đàn ông nợ ta một ân tình và ông ta thuộc về xã hội thượng lưu với những mối quan hệ đúng đắn. Tên ông ta là Malory-James Malory."