Takaki nhanh chóng tìm được việc làm tại một công ty phát triển phần mềm cỡ trung ở Mikata với vị trí Kỹ sư phần mềm. Anh được phân về phòng phát triển giải pháp phần mềm di động, với đối tượng khách hàng chủ yếu là những nhà cung cấp thông tin liên lạc hay sản xuất thiết bị đầu cuối[1]. Anh thuộc đội phát triển phần mềm di động.
Anh sớm phát hiện ra mình rất hợp với nghề lập trình. Một công việc cô đơn, đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và sự tập trung, nhưng không bao giờ phản lại công sức bạn bỏ ra. Khi đoạn mã bạn viết không hoạt động đúng như dự định, chắc chắn rằng chỉ do bạn làm sai ở đâu đó. Mọi ý tưởng có thể được chuyển hóa thành hàng ngàn dòng lệnh. Điều đó khiến anh cảm thấy chưa bao giờ hạnh phúc như thế. Công việc khá bận, anh luôn về nhà muộn và may mắn lắm mới có năm ngày nghỉ một tháng nhưng kể cả như vậy, bao nhiêu thời gian ngồi trước máy tính với anh vẫn không đủ. Văn phòng của anh sạch sẽ với sơn tường màu trắng, chia thành từng ô nhỏ, và tại góc làm việc của mình, Takaki cặm cụi gõ máy tính hết ngày này qua ngày khác.
Có thể do đặc trưng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, cũng có thể là văn hóa của riêng công ty này, Takaki để ý thấy đồng nghiệp ở đây không bao giờ nói chuyện với nhau, ngoại trừ liên quan đến công việc. Không ai trong nhóm rủ nhau đi uống nước sau khi hết giờ, mỗi người tự mua cơm trưa ở nhà ăn công ty và ăn ngay tại bàn làm việc, không ai chào hỏi nhau khi đến cơ quan hay về nhà, và mọi cuộc gặp gỡ đều được tối thiểu hóa – phần lớn trao đổi bằng thư điện tử. Trong căn phòng rộng lớn với hơn một trăm nhân viên, chỉ vang mỗi tiếng bàn phím gõ lạch cạch, cảm giác về sự tồn tại của con người hầu như không có. Việc giao tiếp không kém phần gượng gạo hơn lúc mới vào đại học là bao, nhưng hồi đó, Takaki còn có thể tán dóc về bất cứ chuyện gì, và rủ nhau đi uống nước mà không cần lý do. Giờ anh đã quen với môi trường mới chuộng sự yên tĩnh. Anh vốn không phải kiểu người thích nói nhiều.
Cuối ngày, anh bắt tàu ở ga Mikata, gần như là trạm dừng cuối cùng của tuyến Trung tâm, xuống Shinjuku và quay về căn hộ ở Nakanosakaue. Khi quá mệt, anh thường bắt tắc-xi thay vì đi bộ ba mươi phút như thường lệ. Anh chuyển về đây sau khi tốt nghiệp đại học. Tiền nhà ở Mikata nơi công ty anh thuê rẻ hơn, nhưng anh không muốn sống quá gần nơi làm việc. Quan trọng hơn, trong anh có một niềm thôi thúc sống ở nơi có tầm nhìn giống Ikebukuro, nghĩa là được ngắm nhìn những tòa cao ốc sầm uất phía Tây Shinjuku.
Có thể đó là lý do anh chuyển đến nơi này. Khoảnh khắc ưa thích của anh hàng ngày là lúc tàu đi qua gần Ogikubo, được ngắm nhìn những tòa nhà cao chót vót phía Tây Shinjuku, khi khoảng cách giữa chúng mỗi lúc một thưa dần. Anh ngồi trong con tàu gần như trống rỗng, vắng ngang chuyến tàu cuối trở về Tokyo, trùm lên mình bộ vét công sở cùng bao mệt mỏi dồn tụ trong ngày – một cảm giác khá nhẹ nhõm. Anh thường lảng ánh nhìn ra xa khi các tòa cao ốc dần dần che khuất nhau, hòa cùng nhịp lắc lư của con tàu. Nền trời đêm Tokyo sáng lạ lùng, làm nổi bật những bóng đen của các tòa nhà trong thành phố. Một vài ô cửa nhỏ sáng đèn báo hiệu còn người thức làm việc đến tận giờ này. Ánh đèn hiệu nhấp nháy màu đỏ của những chiếc phi cơ trên cao trông như đang phập phồng thở. Đến bây giờ, trong anh vẫn thường trực cảm giác muốn dõi theo, muốn vươn tới một điều gì đó, đẹp đẽ mà xa vời. Trái tim anh bất giác xao động quá.
Một sáng ở cơ quan, Takaki mua cà phê tại máy bán hàng tự động ở cạnh cửa ra vào, quẹt thẻ chấm công, rồi quay về chỗ ngồi và khởi động máy tính. Anh dùng chuột mở các chương trình cần thiết và ấn nút “Home” trên bàn phím. Anh kiểm tra, đánh giá thuật toán, chạy vài Giao diện Lập trình Ứng dụng [2] (API) và kết hợp các đoạn mã để chuẩn bị làm việc. Chạy trong nền các API cấp cao là các hệ điều hành, trong nữa là các phần mềm cấp thấp và trong cùng là ổ cứng ảo, phần làm anh phát điên.
Đam mê với phần cứng dạy anh cách trân trọng máy tính, nhờ đó, anh dần thành thạo trong công tác lập trình. Anh chỉ biết một chút kiến thức Vật lý Lượng tử[3] đằng sau cấu trúc của chất bán dẫn[4], nhưng vẫn không tài nào kềm được hứng khởi với chu trình công việc hàng ngày, thứ cho anh cơ hội kiểm soát một công cụ vô cùng phức tạp. Thật thần kỳ. Công cụ ấy là biểu trưng cho sự thống nhất giữa các định luật của Thuyết tương đối[5], lý thuyết vật lý lượng tử ở quy mô nanomet, và hầu hết các Lý thuyết dây[6]. Anh tin máy tính là chìa khóa giải đáp bí ẩn của thế giới, bí ẩn đưa anh về những ước mơ cùng xúc cảm ngày xưa, về chốn cũ dấu yêu, về bản nhạc ưa thích hồi còn đi học, và về lời hứa còn bỏ ngỏ với người con gái đặc biệt ấy. Dù không có gì đảm bảo những điều đó sẽ thành hiện thực, anh vẫn nghĩ suy như thế. Anh lại vùi đầu vào công việc, như người nghệ sĩ cô đơn cứ miên man độc thoại với nhạc cụ của mình.
Cứ thế, năm tháng anh hòa mình vào dòng đời trôi vùn vụt trong chớp mắt. Đã khá lâu rồi kể từ khi anh ngồi suy ngẫm về những thành quả đạt được. Anh hồi tưởng về thời học cấp hai, còn trẻ dại và hay đau ốm. Anh tự hào khi cơ thể ngày một cường tráng và suy nghĩ chín chắn dần lên. Khi kỹ năng sử dụng máy tính “lên tay”, cảm giác nôn nao tương tự cũng xuất hiện trong anh. Anh được đồng nghiệp xung quanh tin tưởng và được tăng lương. Mỗi mùa đến, anh sắm một bộ vét mới. Trong ngày nghỉ, anh dọn dẹp căn hộ và đọc sách, và khoảng nửa năm một lần, anh mời bạn bè đi uống nước, tâm sự. Số bạn bè anh có không hề thay đổi.
Hàng ngày, anh rời nhà lúc tám rưỡi sáng và quay về khi đã hơn một giờ sáng.
Vòng lặp cuộc sống cứ thế tiếp diễn. Những tòa cao ốc phía Tây Shinjuku vẫn đẹp hớp hồn người bất kể trong tiết trời nào, thậm chí còn tráng lệ hơn mỗi năm qua đi.
Thỉnh thoảng, vẻ đẹp ấy nhen nhóm trong lòng anh một điều gì đó, một điều khó mà mường tượng cụ thể.
***
Lâu rồi mới có người gọi tên anh “Tohno-san”, trong một sáng mưa chủ nhật nọ, tại một sân ga phía Tây Shinjuku. Giọng nói cất lên từ một cô gái đeo kính, mang theo một chiếc ô màu be. Trong thoáng chốc, anh không nhớ ra cô là ai, chỉ ngờ ngợ đã gặp ở đâu rồi. Đương lúc đang lưỡng lự không biết nên đáp lại thế nào, anh chợt nhận ra khi cô nói, “…Tôi làm việc trong đội bảo trì hệ thống.”
“À …cô làm ở bộ phận của Yoshimura-san.”
“Tôi tên là Mizuno. Thật mừng là anh còn nhớ.”
“Tôi xin lỗi. Tại cô mặc đồ công sở khi ta gặp lần đầu…”
“Ồ, chắc tại chiếc mũ tôi đội hôm nay. Vừa thấy anh, tôi nhận ra ngay. Trông anh có vẻ thư sinh khi mặc đồ bình thường.”
Thư sinh? Cô ấy không có ý xấu đâu, anh nghĩ. Họ cùng sóng bước xuôi xuống cầu thang. Cô gái cũng có dáng dấp như sinh viên với đôi xăng-đan màu nâu và bộ móng chân bóng màu hồng phớt được chăm sóc cẩn thận. Cô ấy vừa nói tên mình là gì ấy nhỉ… À, đúng rồi, Mizuno. Họ biết nhau khi anh sang đưa báo cáo cuối tháng cho khách hàng bên đó, vừa đúng lúc cô ấy đang làm việc. Kể từ đó, họ chưa gặp lại nhau lần nào. Họ từng trao đổi danh thiếp và giọng nói nghiêm túc, rõ ràng của cô đã làm anh ấn tượng.
Giờ anh nhớ cả rồi. Tên cô gái đầy đủ là Risa Mizuno. Anh nhớ kiểu chữ trên danh thiếp khớp hoàn toàn với tính cách của cô. Họ cùng đi xuống cầu thang và rẽ phải.
“Cô cũng đi về cổng phía Đông à, Mizuno-san?”
“Ừm, không hẳn vậy.”
“Không hẳn?”
“Ừm, thật tình giờ tôi khá rảnh. Mưa vừa dứt nên tôi đang tính sẽ đi mua sắm, tranh thủ trời đang đẹp,”
cô mỉm cười nói. Anh cũng tươi cười đáp lại.
“Vô tình tôi cũng không bận gì. Hay ta kiếm quán cà phê nào ngồi nói chuyện hoặc đến chỗ nào khác cô muốn cũng được?”
Mizuno có vẻ ngạc nhiên, nhưng cũng tươi cười đồng ý.
Ngày hôm đó, họ ngồi uống cà phê ở một quán nhỏ gần cửa Đông, trò chuyện độ hai tiếng, trao đổi số điện thoại rồi ra về.
Khi Tohno ghé vào một tiệm sách, anh chợt nhận ra mình đang khát khô cổ. Đã một thời gian dài, anh mới nói chuyện thoải mái với một người đến độ quên hết mọi thứ xung quanh. Anh nhận ra cả hai rất hợp cạ, như thể hai tiếng là quá ngắn, mặc dù anh và Mizuno mới quen. Họ buôn đủ chuyện về công ty, về nơi mình sống và hồi còn đi học. Không có gì đặc biệt, nhưng anh cảm thấy thư thái khi ở cạnh cô ấy. Một cảm giác ấm áp tưởng đã lãng quên từ lâu, hôm nay lại nhen nhóm lên trong anh.
Một tuần sau, anh gửi thư mời cô ấy ăn tối. Anh kết thúc công việc sớm, hẹn cô ấy
ăn tối ở Kichijouji và tạm biệt nhau lúc hơn 10h tối. Tuần tiếp theo, đến phiên cô mời anh dùng bữa tối và tuần sau nữa, hai người gặp mặt mà vui như hội. Họ dành cả ngày xem phim cùng nhau. Dần dần, quan hệ giữa họ ngày càng thắm thiết hơn.
Mizuno là kiểu phụ nữ càng quen thân lại càng thêm mến. Cặp kính cùng mái tóc đen dài khiến cô thoạt nhìn không có gì nổi bật, nhưng nếu nhìn kĩ, khuôn mặt cô trông khá sáng sủa và thông minh. Cô ấy hay mặc đồ kín đáo, dễ mắc cỡ và không muốn thu hút sự chú ý của đám đông. Cô trẻ hơn anh hai tuổi, chân thành và thật thà. Cô không bao giờ nói to, mà ngược lại, nhẹ nhàng và từ tốn. Mỗi khi bên nhau, anh luôn cảm thấy bình yên.
Căn hộ của cô ấy nằm ở Nishikokubuji và do cô thường đi làm trên tuyến Trung tâm, hai người hay hẹn gặp nhau đâu đó dọc tuyến. Anh có thể cảm nhận được tình cảm cô dành cho anh khi họ tựa vào vai nhau trên tàu, ngồi ăn cùng nhau hay cùng đi bên nhau. Chắc chắn nếu một trong hai người thổ lộ, người còn lại sẽ không từ chối. Tuy vậy, anh vẫn do dự đã nên tiến tới hay chưa.
Takaki đưa mắt dõi mãi bước chân cô về phía đối diện ga Kikujouji. Anh thường rất cuồng nhiệt khi mới thích một cô gái. Chẳng bao lâu sau, anh nhanh chóng thấy chán và để tuột mất người quan trọng ấy. Anh không muốn điều ấy lặp lại một lần nữa.
***
Năm đó, trong một chiều mưa ờ nhà, vô tuyến đưa tin tên lửa H2A vừa được phóng thành công.
Ngày hôm đó, trời ẩm kinh khủng đến nỗi anh phải đóng chặt cửa sổ và bật điều hòa trong nhà. Bên ngoài vọng vào tiếng mưa sầm sập như trút và tiếng ô tô lao vùn vụt trên mặt đường sũng nước. Màn hình hiện lên hình ảnh tại Trung tâm Không gian Tanegashima quen thuộc, phía đuôi tên lửa H2A bùng nổ với một đám lửa lớn. Kế đó, ti vi chuyển sang góc quay tầm xa, cho thấy quả tên lửa bay lên cao dần, xuyên qua các tầng mây. Cuối cùng, vô tuyến chuyển sang máy quay gắn bên sườn hỏa tiễn, chiếu thẳng xuống Trái Đất. Toàn cảnh đảo Tanegashima hiện ra bên dưới, trông rõ mồn một trường cấp ba Tanegashima anh từng học và vùng bờ biển dọc Nakatane.
Một cơn rùng mình bất giác chạy dọc sống lưng anh.
Cảm xúc của Takaki trước cảnh tượng trên màn hình thật khó tả. Nhà anh không còn ở Tanegashima nữa. Bố mẹ anh đã quay lại Nagano từ lâu và nhiều khả năng sẽ sống trọn phần đời còn lại ở đó. Tanegashima chỉ còn là một chốn hoài niệm trong anh.
Anh uống một ngụm bia ấm, cảm nhận vị đắng từ từ chảy xuống ruột. Cô nữ phóng viên, mặt vô cảm, cho hay vừa rồi là một vệ tinh quan trắc địa lý. Nói cách khác, điều đó có phần nào liên quan tới anh, hay nói đúng hơn, nó khiến anh hồi tưởng về một nơi chốn xa xưa.
Lần đầu xem phóng hỏa tiễn, anh mười bảy tuổi. Một cô gái cùng trường đứng cạnh anh. Dù khác lớp nhưng họ khá thân nhau. Thực ra, cô ấy thường chủ động hơn anh. Tên cô ấy là Kanae Sumida, thích lướt sóng, một cô bé dễ thương, năng động, có làn da rám nắng.
Gần mười năm trôi qua, thời gian dần chôn vùi những rung cảm ngày ấy, nhưng giờ nghĩ lại, tim anh chợt đau nhói. Cơ thể, mùi mồ hôi, giọng nói, nụ cười, gương mặt, tất cả ấn tượng về cô ấy đổ về lòng anh như thác lũ, những cảm xúc thời niên thiếu ở Tanegashima bỗng trở lại đầy tươi mới. Dù tiếc nuối nhưng anh biết, đó là điều duy nhất mình có thể làm với Sumida khi ấy. Mọi thứ đều rõ như ban ngày, từ cách cô ấy si mê anh, những lần cô ấy cố gắng thổ lộ tình cảm với anh, đến những lần anh ngăn cô lại và thái độ của cô ấy sau khi từ bỏ. Anh nhớ mọi điều như mới xảy ra ngày hôm qua, nhưng anh biết, mình không thể làm gì hơn được.
Lúc anh chuẩn bị đến Tokyo học đại học, Sumida là người duy nhất anh thông báo về chuyến bay. Đó là một ngày tháng ba đầy nắng và gió. Tại bãi đỗ xe sân bay bé như một bến phà nhỏ, họ trao đổi vài lời trước khi tạm biệt. Cô ấy vừa nói vừa thút thít suốt, nhưng ngay trước khi anh đi, cô ấy vẫn cố cười thật tươi. Cô ấy hẳn trưởng thành và mạnh mẽ hơn anh lúc đó nhiều.
Anh không nhớ mình có mỉm cười đáp lại không. Anh không thể nhớ nổi.
0h20 đêm.
Anh phải ngủ để sáng mai còn đi làm. Bản tin đã kết thúc, nhường chỗ cho mục quảng cáo đêm khuya.
Takaki tắt vô tuyến, đánh răng, hẹn giờ điều hòa tự động tắt sau một tiếng, tắt đèn và trèo lên giường. Đèn điện thoại đang sạc nhấp nháy, báo hiệu có tin nhắn mới. Anh mở điện thoại lên, ánh sáng trắng từ màn hình khiến căn phòng hửng sáng. Mizuno mời anh ăn tối. Anh nằm nghiêng sang một bên và nhắm mắt lại một lát.
Đủ mọi hình dạng xuất hiện trước mắt anh. Anh từng nghe nói áp lực của mí mắt lên con ngươi sẽ kiểm soát bao nhiêu ánh sáng mà thần kinh thị giác có thể nhìn, nên con người không bao giờ nhìn thấy bóng tối đích thực. Anh tự hỏi người nào đã nói cho anh biết điều đó.
Giờ ngẫm lại, anh nhớ mình từng có thói quen soạn thư điện tử trong di động nhưng không gửi cho ai cả. Thoạt tiên, anh viết cho một cô gái mặc dù không biết địa chỉ thư điện tử của cô. Họ đã mất liên lạc từ rất lâu. Kể cả sau đó, anh vẫn tiếp tục viết, những mong bộc bạch với cô tình cảm chất chứa trong lòng. Lần nào soạn xong, anh đều xóa đi. Việc đó, như một bước chuẩn bị, một bước chạy thử trước khi anh đơn độc bước vào cuộc đời.
Ít lâu sau, khi những bức thư đó chẳng còn hướng đến một người cụ thể nào và chuyển sang độc thoại nội tâm, thói quen tự soạn tin nhắn biến mất. Đó là khi anh sẵn sàng cho cuộc hành trình lớn.
Anh không gửi lá thư nào cho “cô ấy” nữa.
Anh biết mình sẽ không nhận được thư nào từ “cô ấy” đâu. Nghĩ đến đấy, đau khổ và thất vọng lại dâng đầy trong anh. Anh ngạc nhiên vì những xúc cảm ấy vẫn tồn tại đến tận giờ và chợt nhận ra, anh chưa hề thay đổi chút nào. Anh vẫn là con người thiếu hiểu biết, ngạo mạn, độc ác lúc đó. Mắt anh nhắm nghiền. Không… ít nhất giờ anh biết rõ ai là người quan trọng với anh từ nay về sau.
Có lẽ, anh đã yêu Mizuno.
Lần tới gặp mặt, anh sẽ thổ lộ tình cảm với cô ấy. Tâm niệm điều đó trong đầu, anh liền hồi âm. Anh sẽ đối mặt với cảm xúc dành cho cô ấy. Như Sumida đã làm trong ngày cuối họ gặp nhau.
Ngày đó, tại sân bay.
Gió thổi phần phật, cả đồng phục, dây điện, lá cây xung quanh, và mái tóc của Sumida. Dù vẫn còn thút thít, cô cố nở nụ cười nhìn anh.
“Em yêu anh, Tohno-kun. Cám ơn anh vì tất cả.”
[1] Là những thiết bị như: Máy điện thoại, máy tính, máy fax..., có nhiệm vụ giải mã những tín hiệu và mã do tổng đài hoặc trung tâm chuyển mạch chuyển đến. Xem thêm
[2] Application Programming Interface là một giao diện mà một hệ thống máy tính hay ứng dụng cho phép các yêu cầu dịch vụ có thể được tạo ra từ các chương trình máy tính khác, và/hoặc cho phép dữ liệu có thể được trao đổi qua lại giữa chúng. Đây là phần mềm hệ thống cung cấp đầy đủ các chức năng và các tài nguyên mà các lập trình viên có thể rút ra từ đó để tạo nên các tính năng giao tiếp người- máy như: các trình đơn kéo xuống, tên lệnh, hộp hội thoại, lệnh bàn phím và các cửa sổ. Xem thêm vi.wikipedia.org/wiki/Giao_diện_lập_trình_ứng_dụng.
[3] Quantum Physics là chuyên ngành vật lý giải thích các hiện tượng ở quy mô nguyên tử hay nhỏ hơn.
[4] Semi-conductor là vật liệu trung gian giữa chất dẫn điện và chất cách điện, hoạt động như một chất cách điện ở nhiệt độ thấp và có tính dẫn điện ở nhiệt độ phòng. Gọi là "bán dẫn" nghĩa là có thể dẫn điện ở một điều kiện nào đó, hoặc ở một điều kiện khác sẽ không dẫn điện. Xem thêm vi.wikipedia.org/wiki/Chất_bán_dẫn.
[5] Theory of relativity của Albert Einstein bao gồm 2 lý thuyết vật lý: thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối rộng. Ý tưởng cơ bản trong hai lý thuyết để giải thích hiện tượng trên là: khi hai người chuyển động tương đối với nhau, họ sẽ đo được những khoảng thời gian và khoảng cách khác nhau giữa cùng những sự kiện, tuy nhiên các định luật vật lý vẫn hiện ra giống nhau đối với cả hai người. Xem thêm vi.wikipedia.org/wiki/Thuyết_tương_đối
[6] Superstring Theory là một thuyết hấp dẫn lượng tử, được xây dựng với mục đích thống nhất tất cả các hạt cơ bản cùng các lực cơ bản của tự nhiên, ngay cả lực hấp dẫn. Các nhà vật lý lý thuyết hiện đại đặt rất nhiều hy vọng vào lý thuyết này vì nó có thể giải quyết được những câu hỏi như tính đối xứng của tự nhiên, hiệu ứng lượng tử tại các lỗ đen, cũng như tại các điểm kỳ dị, sự tồn tại và phá vỡ siêu đối xứng... Xem thêm vi.wikipedia.org/ wiki/Lý_thuyết_dây.