Phủ Ninh Hóa là tên một con phố, thuộc thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.
“Tương truyền khi chinh chiến đến đây, dũng tướng Thường Ngộ Xuân dưới trướng Chu Nguyên Chương đã được một cô gái dân thường họ Liễu cứu giúp, vì vậy mới đặt tên cho con ngõ này là Ngõ Liễu.
Kể từ đó, nơi đây trở thành trung tâm thương mại phồn hoa nhất Long Thành.”
Chiêm Đài và Phương Lam sánh bước trên phố Ngõ Liễu.
Từng tốp du khách đi dưới những dãy đèn lồng đỏ treo lơ lửng trên không, hầu như ai nấy đều cầm trên tay những món ăn vặt và bánh xốp.
“Cô đói không?” Chiêm Đài cúi đầu, dịu dàng hỏi Phương Lam: “Súp thịt cừu và sủi cảo hấp nhân thịt dê của Thanh Hòa Nguyên cũng đặc sắc lắm, cô có muốn nếm thử không?”
Phương Lam mỉm cười lắc đầu: “Cậu cũng mới lần đầu đến đây, sao rành thế?”
Chiêm Đài cười tươi, đáp: “Sao cô biết tôi đến đây lần đầu? Thật ra, hơn mười năm trước, tôi cùng sư phụ và anh tôi đã đến nơi này.
Có điều, khi đến và đi đều nhân lúc trời tối, không ngắm được cảnh thôi.”
Cậu ngẩng đầu lên, nheo mắt để phân biệt phương hướng, sau đó quay sang nói với cô: “Nếu không chuẩn bị trước, tôi cũng không dám dẫn cô đến đây.”
Họ đi vào từ cổng phía đông phố Kiều Đầu, dọc theo ngõ Tây Giáp là đến Phủ Ninh Hóa, một mùi chua xộc lên nồng nặc.
Phương Lam khụt khịt mũi, cảm thấy cay hết cả mắt.
“Là giấm à?” Cô nhăn mày hỏi.
Chiêm Đài khẽ gật đầu, rồi dẫn cô rẽ vào một cửa hàng nằm trong cùng con phố Phủ Ninh Hóa.
Trước cửa là hai cái vò lớn màu đen, trên mỗi vò có dán một tờ giấy đỏ, một tờ ghi chữ “Rượu”, một tờ ghi “Giấm”.
“Rượu và giấm được làm từ cùng một nguyên liệu.
Nấu đủ lửa thì thành rượu, nấu không đủ lửa thì thành giấm.” Chiêm Đài thản nhiên đẩy cửa ra.
Tháng là mùa ít khách du lịch, huống hồ còn là buổi tối ngày thường như này.
Cửa hàng vắng teo, những dãy kệ gỗ màu xám đậm trên tường bày đủ loại vò lớn nhỏ màu đen, trông lung lay như đã lâu không được sửa chữa.
Trên nền nhà bằng xi măng đã cũ có những vết nứt kì quái, các kệ hàng ở hai bên bám đầy bụi, có vẻ như đã một thời gian dài không có ai giẫm lên.
Phương Lam kéo vạt áo Chiêm Đài, nhỏ giọng hỏi cậu: “Lần trước đến đây, cậu vẫn còn nhỏ phải không? Đã nhiều năm rồi, liệu cậu có nhớ nhầm chỗ không?”
Chiêm Đài nhướng mày với cô, lại còn nhếch khóe miệng, ánh mắt mang theo vẻ kiêu ngạo xen lẫn hài hước.
Cậu không trả lời cô, mà chỉ ung dung đứng im giữa cửa hàng.
Và, không biết từ lúc nào, cậu đã lấy huyên Bạch Cốt ra, cầm bằng bàn tay phải không bị thương.
Phương Lam nhíu mày.
Chiêm Đài liền khẽ cử động ngón trỏ, cô vội lui ra sau mấy bước, đồng thời nắm chặt thanh kiếm ngắn bằng gỗ đào.
Sao cậu vừa mới vào cửa đã đánh đấm vậy? Phương Lam vừa oán thầm vừa chuẩn bị sẵn sàng.
Tuy nhiên, cô thấy Chiêm Đài lại nhìn về phía mình với ánh mắt thoáng nét cười và vẻ mặt rất thoải mái.
Phương Lam nhất thời không đoán được người kia là bạn hay thù, cứ thế ngơ ngác đứng sang một bên.
Huyên Bạch Cốt rung nhẹ trong tay Chiêm Đài, nhưng không thấy cậu đưa nó lên miệng để thổi.
Thay vào đó, vạt áo bên tay trái của cậu hơi lay động, lòng bàn tay thấp thoáng một chiếc lông vũ màu trắng.
Phương Lam nhìn kỹ mới thấy chiếc lông vũ màu trắng tinh, phần đuôi lộ ra ngoài vạt áo có màu phấn hồng, đẹp đẽ và đều như được nhuộm màu nước.
Chiêm Đài khẽ lắc cổ tay, chiếc lông vũ càng lộ ra nhiều hơn.
Bấy giờ, Phương Lam mới phát hiện, nó lớn hơn nhiều so với tưởng tượng của cô.
Chiếc lông vũ dài ngang bằng cả cánh tay Chiêm Đài, phần đuôi màu hồng rộng bằng bằng bàn tay cậu.
Chiêm Đài cúi đầu, khóe môi vểnh lên, đôi mắt phượng lơ đãng nhướng lên nhìn xung quanh.
“Thái sơ thái thủy, miên nhược miên tồn, vạn vật hóa sinh, vô tri vô năng.”
Từ thuở ban sơ hỗn độn, vạn vật đã biến hóa không ngừng.
Giọng cậu trầm thấp mà chậm rãi, ngay khi vừa cất lên đã khiến Phương Lam có cảm giác an toàn một cách khó lí giải.
Chiếc lông vũ từ từ chuyển động trong lòng bàn tay trái Chiêm Đài, như thể có một con chim lớn màu trắng thoắt ẩn thoắt hiện trong tay áo của cậu.
Đúng lúc này, huyên Bạch Cốt phát ra tiếng “leng keng”, chiếc hồ lô nhỏ bằng gỗ du đeo trên cổ Phương Lam cũng chuyển động theo.
Cô mới chỉ cảm thấy hơi đau nhói ở trước ngực, thì thoáng một cái, Chiêm Đài đang đứng ở giữa cửa hàng bỗng nhanh chóng ra tay.
Chiếc lông vũ trông xinh xắn mềm mại lao vút ra như mũi tên rời dây cung, nhằm thẳng về phía một cái vò màu đen kích cỡ vừa phải ở trên tường theo hướng tây bắc.
“Chát” một tiếng, thân vò bóng loáng lập tức xuất hiện những vết nứt màu xám hệt như mạng nhện, nom như một bức bản đồ cổ quái.
Chiêm Đài vung cánh tay, chiếc lông vũ liền trở lại trong tay cậu chẳng khác gì một chú chó trung thành.
Cái vò màu đen bắt đầu lắc lư, rung rinh như lá rụng trong gió thu.
Trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ, Phương Lam cảm thấy như thể có một con chuột nhắt nhát gan đang chui trong cái vò màu đen để trốn con mèo.
Quả nhiên đúng như dự đoán, Chiêm Đài nhíu mày nhìn chằm chằm cái vò một lúc lâu, rồi sầm mặt, quát: “Còn đợi gì nữa mà không mau ra đây đi?”
Cái vò càng rung lên dữ dội hơn, khiến toàn bộ kệ gỗ vốn hư hỏng đã lâu cũng lung lay chực đổ theo.
Phương Lam lặng lẽ lùi lại nửa bước, nhưng Chiêm Đài đã tinh ý nhận ra.
Cậu trao cho cô ánh mắt trấn an, sau đó quay đầu cười khẩy và nói với cái vò đang run cầm cập: “Rượu mời không uống lại thích uống rượu phạt.”
Chiếc lông vũ lại bay khỏi tay cậu, phóng thẳng vào cái vò đen một cách không thương tiếc.
Cái vò nứt toác, ánh lửa bắn ra tung tóe.
Kệ gỗ ọp ẹp không chịu nổi sức công phá như vậy, thế là đổ sập, khiến , cái vò đồng loạt rơi xuống nền nhà, vỡ loảng xoảng.
Mùi rượu lẫn mùi giấm bỗng chốc sực nức bên trong cửa hàng.
Phương Lam không đề phòng nên hít phải, nên hắt xì liên tục, nước mắt nước mũi giàn giụa.
Song, qua làn nước mắt, cô vẫn loáng thoáng nhìn thấy một bóng đen mờ mờ chui ra khỏi cái vò đen bị rơi xuống đầu tiên, rồi trườn trên sàn nhà như con cá chạch.
Cô toan mở miệng kêu lên nhắc Chiêm Đài, nhưng cậu đã nhận ra, và chỉ hơi nhếch khóe miệng.
“Không biết tự lượng sức mình.”
Lần này, cậu không dùng lông vũ nữa mà ném thẳng huyên Bạch Cốt về phía bóng đen kia, làm bọt nước trên sàn bắn lên, cản bước chân chạy trốn của nó.
Bấy giờ, Phương Lam mới nhìn rõ bóng đen nằm rạp trên sàn vốn là một con cá chép màu đen rất to.
Chiêm Đài bước tới, tóm lấy đuôi con cá chép, nhấc bổng lên.
Con cá chép vừa nãy còn liều mạng giãy giụa trong bã rượu, lúc này lại ngoan ngoãn, im lìm không nhúc nhích mặc cho cậu quăng quật.
“Còn cứng cổ?” Cuối cùng, Chiêm Đài giận ra mặt, lòng bàn tay cậu chợt bùng lên ngọn lửa xanh lam, đốt cái đuôi đen thui của con cá, khiến nó vùng vẫy kịch liệt.
Cho dù nó không phát ra tiếng, song Phương Lam dường như vẫn có thể nghe thấy tiếng kêu rên thảm thiết của nó.
Trong nháy mắt, con cá chép tuột khỏi tay Chiêm Đài, lắc mình biến thành một ông già cao tầm mét, lưng còng, mặc áo bào màu đen hoa văn hình nước, mặt mày bóng loáng với chòm râu dê, khoảng cách giữa hai mắt rất xa, tròng mắt to như chuông đồng, ánh mắt đờ đẫn, trông vừa vô tội vừa đáng thương, như đang lên án Chiêm Đài bạo hành ông ta vậy.
“Cậu Lục à, sao nhiều năm không gặp mà cậu vẫn nghịch ngợm thế?” Cá chép tinh ho nhẹ một tiếng, làm ra vẻ lắc đầu vẫy đuôi mà rằng: “Tuy cậu ngang ngạnh, nhưng lão già này không chấp nhặt với cậu.
Lão tha cho cậu một mạng, không cần cậu bồi thường mấy vò rượu bị vỡ, cậu còn không biết điều mà lẩn cho nhanh?”.