Mùa xuân Thiên Hưng này, Thiện Thủy lần nữa tiếp tục bước lên đất Lạc Kinh.
Tòa thành Đế đô trải qua thử thách với máu và lửa, bây giờ đứng sững trước mặt nàng. Bầu trời xanh như tẩy, thành tường bằng phẳng rộng rãi trên một vùng đồng bằng rộng lớn đầy hoa cỏ, nguy nga mà yên tĩnh. Trong một kẽ hở ở góc thành, mấy đám cỏ dại bướng bỉnh đâm ra, thỏa thích bay trong gió xuân – nếu như không có màu xanh rêu của tường thành, có lẽ sẽ thấy được chút dấu vết cây đổ do đao kiếm, dấu vết bị lửa đốt cháy. Dù không ai có thể tưởng tượng thời gian một năm trước, ở nơi này đã từng xảy ra chuyện gì. Có trốn thoát, có phản bội, nhưng người được nhớ tới, cũng là người trung thành, giàu lòng hy sinh. Dù cho trung thành và giàu lòng hy sinh dễ dàng bị lãng quên, những thứ đó cũng sẽ vĩnh viễn bám chặt lấy từng viên gạch trên tường thành. Dù một ngày nào đó tường thành có sập xuống, từng tấc đất dưới tường thành cũng sẽ vĩnh viễn khắc sâu ấn ký bất diệt.
Thậm chí Hoắc Thế Quân cũng không còn kịp đưa Thiện Thủy và bọn nhỏ đến Lạc Kinh, nửa đường liền vội và từ biệt. Phía bắc Lạc Kinh còn có dị tộc Thiết Đề ở đây kêu khóc, chiến sự trong vòng tám trăm dặm xung quanh vẫn chưa dẹp hết, nam nhân này, hắn dẫn theo thê tử, xoay người phóng ngựa đi.
“Không phá An Hưng, thề không bước vào Lạc Kinh một bước. Đây là tâm nguyện của ta, càng là món nợ ta phải trả. Nhu Nhi, chờ ta trở về.”
Lời thề khắc nghiệt như vậy, cũng là lời biểu đạt của hắn với nàng trước khi đi. Thiện Thủy nhớ dáng vẻ lúc đó của hắn. Hắn vừa đen vừa gầy, trên mặt còn dấu vết gió bụi phương Bắc, râu xanh đen vừa mới mọc, Thiện Thủy nhìn hắn như nhìn thấy núi cao, nhìn thấy gánh nặng trong đó, cũng nhìn thấy sự kiên định vững vàng ở trong đó.
“Ta chờ chàng quay về.”
Nàng buông lỏng đôi tay hắn đang nắm chặt, cũng mỉm cười nói hẹn gặp lại với hắn.
Đi qua cánh cổng hoàng cung đóng chặt, mặc kệ là ban ngày hay là đêm tối, ngoại trừ binh sĩ tuần tra, dường như không còn một ai mong muốn được đến gần một nơi đã từng tượng trung cho quyền lực chí cao của thiên hạ.
Thanh Liên đường của Vĩnh Định Vương phủ bị phá hủy do một trận hỏa hoạn. Trận hỏa hoạn này qua đi đã khiến cho một nơi đã từng là vương phủ trở thành phế hoang.
Thiện Thủy dẫn theo bọn nhỏ, đi vào căn nhà ngày đó mẫu thân đã tự sát. Ở chỗ này, nàng đã trải qua tuổi thơ và thời thiếu nữ, di chuyển một vòng thật lớn, cuối cùng bây giờ đến lượt nàng dẫn các con của nàng trở lại.
Lúc thời tiết đẹp, nàng thỉnh thoảng sẽ đi qua các thành tường, hình ảnh phụ thân sẽ hiện lên trước mắt, Hoắc Vân Thần và những binh sĩ sánh vai bên nhau cùng ngã xuống. Bọn họ bây giờ yên giấc ở đâu đã không tìm được, nhưng giống như Bạch Quân đã nói: “Có quan hệ gì? Bây giờ chàng đã ở trong tim em. Lúc em ăn cơm sẽ ăn cùng chàng, lúc ngủ cũng ngủ cùng chàng, chàng nhìn em vui vẻ cũng sẽ hạnh phúc, lúc em khổ sở chàng sẽ an ủi em.”
Trương Nhược Tùng, tại sao trong lúc thành bị phá, hắn lại đi ngược lại con đường mà mọi người đang nóng lòng muốn thoát, đi vào tòa thành đã bị chiếm, nói chung vĩnh viễn cũng chỉ có hắn biết. Chẳng qua chuyện này không quan trọng, hắn vẫn là một người có thói quen đi con đường khác với mọi người. Về phần tại sao hắn gọi nàng là thê tử trước mặt mọi người, điều này thật ra mới là quan trọng nhất. Chuyện kế tiếp sau đó cũng không ngoài dự đoán của mọi người. Hắn chữa khỏi căn bệnh lâu năm cho người Tây Khương, xóa bỏ hết đau đớn của người đó. Tướng quân Tây Khương giữ hắn ở lại, chuẩn bị tình huống bất ngờ có thể xảy ra. Về phần thê tử từ miệng hắn, sẽ không ai tin tưởng một công chúa chân chính sao có thể tự chịu thiệt như vậy. Bởi vì nếu có giết cũng chỉ là một nhân vật nhỏ nhoi, cho nên sau khi bị đánh một trận đòn roi thì trả lại cho hắn.
Hắn cũng không gặp qua phụ mẫu mình, lúc hắn bó thuốc giúp Hoắc Hi Ngọc, nàng quay mặt qua nói cho hắn biết. Nàng nói ngày thành bị tấn công nàng đã tự mình đưa ngựa cho phụ mẫu và cháu ngoại hắn. Lúc nói câu này, nàng cố ý nhấn mạnh hai chữ ‘tự mình’. Khi nàng nhìn thấy sự cảm kích khó hiểu trên mặt hắn, rốt cuộc cũng thở phào nhẹ nhõm.
Nàng nói: Chàng biết tại sao ta tiếp nhận bị đánh không? Bởi vì ta biết được sống không dễ. Ta lấy thân phận một nữ nhân bình thường chứ không phải thân phận nô lệ, cho nên ta đón nhận.
Nàng nói: Chàng biết tại sao ta nhất định phải tự mình đưa ngựa đến cho phụ mẫu chàng không? Bởi vì ta muốn chàng nhớ, chàng thiếu ân tình của ta. Ta vốn là muốn cho cả đời này chàng đều phải nợ ta món ân tình này. Nhưng chàng đã cứu ta một mạng, cho nên coi như chúng ta huề nhau.
Cuối cùng nàng nói: Chàng có biết tại sao ta nhất quyết đợi chàng trở lại không? Ta vốn muốn đợi ngày chàng về, chờ chàng đón nhận thánh chỉ tứ hôn, ta sẽ tự mình nói với chàng, ta không muốn chàng. Từ nhỏ đến lớn, ta nghĩ muốn gì đó, nhất định phải lấy về cho bằng được, mặc kệ phải dừng bất cứ thủ đoạn nào. Cho nên ta muốn chàng nhớ, là ta muốn chàng, cũng là ta không muốn chàng. Bây giờ chàng đã trở lại, có lẽ vĩnh viễn sẽ không có thánh chỉ tứ hôn. Nhưng không sao, chính tai ta nghe được chàng nói ta là thê tử chàng. Cho nên bây giờ ta sẽ nói với chàng, ta không muốn chàng.”
Lúc nàng nói xong lời này, quay đầu lại, bên mỗi vẫn giữ nụ cười kiêu ngạo.
Sau ngày hôm đó, Ngưỡng Hiền vẫn luôn ở bên cạnh nàng, cũng ở cùng Trương Nhược Tùng khó khăn sống qua ngày. Hai tháng sau, lúc thành trì được khôi phục, chém giết và mù quáng chạy trốn đã qua, nàng vẫn dẫn theo Ngưỡng Hiền, mà Trương Nhược Tùng đi theo đại quân Hoắc Thế Quân làm một quân y.
Hiện tại Hoắc Hi Ngọc ở cùng một chỗ với Thiện Thủy ở Tiết gia. Phần lớn thời gian nàng đều không đi ra ngoài, nhưng thỉnh thoảng cũng sẽ mang Ngưỡng Hiền ra ngoài men theo con đường quanh co. Có một ngày, Ngưỡng Hiền đi cùng nàng trở về nói, nàng đến trước cửa một gian phòng rộng lớn khép chặt, ngẩn người hồi lâu, trả hết nước mắt.
“Mẫu thân, cô cô nói trên đời này người đáng hận nhất chính là thầy thuốc. Nhưng con lại muốn học. Con muốn chờ Trương thúc thúc trở lại, cầu xin người dạy y thuật. Người nói với con, ở ngoài biển Đông, ở vùng Tây Vực còn có rất nhiều người không giống những người chúng ta đã gặp. Con cũng muốn theo người đi khắp thiên hạ, có được không?”
Ngưỡng Hiền nghiêm túc khẩn cầu như vậy.
Thiện Thủy sờ sờ đầu nhi tử, cười nói: “Chỉ cần Trương thúc thúc chịu, mẫu thân cũng đồng ý.”
Lúc Hoắc Thế Quân đang chiến đấu một trận ở phương Bắc, Hoắc Thế Du cũng không nhàn rỗi, phương nam Đại Nguyên cũng bị cuốn vào một cuộc chiến sự. Nhưng đối thủ, không phải là người Tây Khương, cũng không phải là người Đát Thản, mà là người bên họ ngoại hắn, Chung gia.
Tháng ba Thiên Hưng năm thứ nhất sau khi nhận được tin Trường cữu cữu đã dẫn mười vạn binh mã Đại Nguyên theo Hoắc Thế Du lên phương Bắc đánh Đát Thản, chờ thánh chỉ đến trước, sẽ trú ở Diên Châu phát động binh biến. Bởi vì khói báo động phương Bắc còn đang cuồn cuộn, trên đồng bằng phương Nam lại nổ ra nội chiến – đây là dã tâm từ lâu tranh đấu vì hoàng quyền. Cho đến một năm sau, mùa xuân Thiên Hưng năm thứ hai, trận chiến sự này mới thực sự chấm dứt. Quân phản loạn bị quân đội Đại Nguyên áp chế một góc ở Tây Nam. Mặc dù còn đang chống lại dựa vào vị trí hiểm yếu, nhưng đã không thể che giấu được sự lụn bại tất yếu.
Khi tin tức kia vượt qua Xích Thủy, theo gió bay vào vùng đất hoang mênh mông phủ Hưng Khánh, cuối cùng vượt qua dãy núi ẩn hiện, Hoắc Thế Quân cùng với mười vạn Hổ sư dưới trướng hắn đã dẹp xong người cuối cùng có thể cứu viện An Hưng.
Bụi vàng đầy trời bị gió cuốn lấy, bay vào trú trong doanh trại đóng bên ngoài thành An Hưng, tích tụ thành một tầng bùn đất dầy, cũng bay qua thành tường, rơi vào trong thành trì An Hưng. Tòa thành này, cùng Hoàng đế và vô số thần dân, đã thành công trở thành một tòa thành đơn độc bị vây lấy trong vòng nửa tháng.
Cuối cùng vào một buổi sáng, trong ánh nắng ban mai, Hoắc Thế Quân đứng trên một bãi đất trống, ngưng mắt nhìn tường thành tầng tầng gạch đá trét đầy bùn đất. Phía trên không tường thành, lá cờ Tây Khương vẫn đang đón gió, thỉnh thoảng có thể thấy được vài bóng dáng trên thành đang lo lắng nhìn trộm.
Hắn đã đứng yên thật lâu, cho đến khi ánh chiều tà bắt đầu xuất hiện ở đằng chân trời chiếu đến trên vai hắn.
“Đại tướng quân, mọi thứ đã sẵn sàng, có thể tấn công được rồi.”
Tống Hành đứng sau hắn, chậm rãi nói.
Rốt cuộc Hoắc Thế Quân nhắm mắt lại, khẽ ngẩng đầu lên, dây tua trên chiếc mũ vàng bị gió thổi rơi xuống gò má theo từng động tác của hắn.
Hắn đón gió nam, hít một hơi thật sâu. Trong gió, ngoài mùi bùn đất hắn đã quen, dường như hắn còn ngửi thấy mùi phấn son chỉ có nữ nhân mới dùng.
Đột nhiên hắn mở mắt ra, bước xuống bãi đất, lập tức nhảy lên lưng ngựa, đao thương bên người vội vàng phóng về phía cổng thành, vạt áo sau lưng bị gió thổi tung thành từng lọn sóng.
Bọn lính Tây Khương phòng bị cả đêm, nhìn thấy dưới tường thành có một người cưỡi ngựa vượt qua thiên binh vạn mã phóng như bay đến phía cổng thành. Trong tiếng gió rít gào hỗn loạn, trên tường lập tức tiến vào trạng thái chuẩn bị chiến tranh.
Hoắc Thế Quân không dừng ngựa, lấy mũi tên phía sau lưng, ngồi thẳng người, giương cung bắn về phía lá cờ tung bay trên cao. Tên xé gió, cột cờ bị gãy đôi, trong tiếng kinh hô, lá cờ rơi xuống, đập thẳng xuống mặt đất trước cổng thành.
Đây là tín hiệu tấn công thành. Tín hiệu phát đi.
Trong tiếng reo hò, từng tiểu đoàn anh dũng tiến lên, giẫm lên lá cờ.
Lúc trời chiều có màu đỏ như máu, thành bị hạ gục. Khi giày lính của Hoắc Thế Quân bước qua thảm trải lộng lẫy, theo từng bước đi còn để lại dấu máu, cuối cùng đứng ở bậc thềm cao đỏ nơi Vị Vương tự vẫn. Lúc hắn liếc nhìn xung quanh, thần tử Tây Khương đang mềm nhũn chân, quỳ gối khuất phục, sợ hãi bất an.
Không chỉ có những người trong hoàng cung này, ngay cả những người ngoài cung, mọi người trong tòa thành này giờ phút này đều đang run rẩy vì số mạng của mình.
Tổng chỉ huy Hổ sư, thời điểm mười bốn năm trước hắn từng sống dưới chân Lương Sơn thống lĩnh hàng nghìn tù binh, vì chính là tám chữ to ‘Lấy răng đền răng, lấy mắt đền mắt’. Mà giờ khắc này, màu cờ mới đổi trên đầu thành, tiếng hô ‘Nợ một trả mười’ vang dội cả núi sông, giống như tiếng Tu La dưới địa ngục đang đòi mạng.
Bao vây thành, tấm khiên, tàn sát, báo thù.
Vận mệnh tòa thành trì này là suy nghĩ duy nhất trong đầu nam nhân này.