Kumiko nghĩ một lát, chốc chốc lại xoa xoa chỗ dạ dày.
- Này, nói em nghe, sao em lại có bầu nhỉ? Theo anh thì vì sao?
Tôi lắc đầu.
- Anh không biết nữa. Chúng mình lúc nào cũng cẩn thận cơ mà. Những phiền phức kiểu này thì anh luôn muốn tránh. Thành thử anh không biết thế nào lại xảy ra như vậy được.
- Anh không nghĩ là em có thể có tình nhân à? Anh không nghĩ đến khả năng đó sao?
- Không bao giờ.
- Sao lại không?
- Anh không biết. Anh không dám nói là nhờ trực giác hay gì gì, nhưng chuyện đó thì anh tin chắc.
Chúng tôi đang ngồi ở bàn bếp, uống rượu vang. Đêm đã khuya, chung quanh yên lặng. Kumiko nheo mắt nhìn đăm đăm vào chút rượu cuối cùng còn lại nơi đáy cốc của nàng. Nàng hầu như không bao giờ uống rượu, chỉ đôi khi không ngủ được nàng mới uống một cốc. Chỉ cần một cốc là hiệu nghiệm ngay. Tôi chỉ uống với nàng cho có bạn. Chúng tôi chẳng làm gì có những món xa xỉ như cốc thứ thiệt dành riêng cho rượu vang. Chúng tôi chỉ uốn bằng những cốc nhỏ đựng bia mà cửa hàng rượu bia gần nhà biếu không.
- Em có dan díu với người khác à? - tôi hỏi, chợt cảm thấy quan tâm đến chuyện đó.
Kumiko mỉm cười lắc đầu.
- Cái anh này, hỏi gì ngốc vậy. Anh biết là em không bao giờ làm những chuyện như thế mà. Em chỉ nêu chuyện đó ra như một khả năng về lý thuyết thôi. - Rồi nàng trở nên nghiêm trang, tì cùi chỏ lên bàn. - Nhưng đôi khi em cũng không biết nhiều điều... Em không biết điều gì thật, điều gì không thật... điều gì thực sự đã xảy ra, điều gì không... Chỉ đôi khi thôi...
- Đây có phải là một trong những cái đôi khi ấy không?
- Vâng, kiểu như thế. Anh thì có bao giờ cảm thấy như vậy không?
Tôi nghĩ một chút.
- Không, anh không nhớ có khi nào như thế cả, - tôi nói.
- Nói thế nào nhỉ? Có một thứ khoảng cách nào đó giữa những gì em cho là thực với những gì quả đúng là thực. Em có cảm giác như có một cái gì đó nho nhỏ, nằm ở bên trong em... như tên trộm ở trong nhà mình, nấp trong tủ quần áo... chốc chốc nó lại xộ ra ngoài một lát làm xáo tung cái trật tự hay logic mà em đã thiết lập ình. Kiểu như cục nam châm làm cho cỗ máy như phát rồ lên ấy.
- Một cái gì gì đó nho nhỏ? Một tên trộm? - tôi nói. - Em nói toàn chuyện mơ hồ quá!
- Ờ, đúng là mơ hồ thật, - Kumiko nói rồi uống nốt chỗ rượu vang còn lại.
Tôi nhìn nàng một lát.
- Em cho là có mối liên hệ nào đó giữa cái gì gì đó nho nhỏ với chuyện em có mang sao?
Nàng lắc đầu.
- Không, em không nói là hai cái đó có liên quan hay không liên quan với nhau. Chỉ là đôi khi em không còn tin chắc lắm vào trật tự của sự vật. Em chỉ muốn nói như vậy thôi.
Có một nét nóng nảy càng lúc càng tăng trong lời nói của nàng. Đã đến lúc chấm dứt câu chuyện này. Đã quá giờ sáng rồi. Tôi vươn tay qua bàn để nắm tay nàng.
- Anh biết đó, - Kumiko nói, - em muốn anh để em tự quyết định chuyện này. Em hiểu đây là vấn đề hệ trọng đối với cả hai chúng ta. Em hiểu vậy mà. Nhưng riêng chuyện này em muốn anh hãy để em quyết định. Em rất áy náy rằng không thể giải thích được rõ ràng những gì em đang nghĩ và đang cảm.
- Anh nghĩ, về cơ bản thì quyền quyết định là của em, - tôi nói. - Anh tôn trọng quyền đó.
- Chúng mình vẫn còn chừng một tháng để quyết định. Chúng mình đã bàn bạc chuyện này mãi rồi, em cũng hiểu khá rõ ý anh ra sao rồi. Giờ hãy cho em suy nghĩ. Mình tạm thời thôi nói đến chuyện này đi nhé.
° ° °
Tôi đang ở Hokkaido thì Kumiko phá thai. Xưa nay công ty chả bao giờ cử những tay loong toong đi công tác xa, nhưng riêng lần này chẳng còn ai khác nên rốt cuộc họ phải cho tôi đi lên miền Bắc. Nhiệm vụ của tôi là giao nhận một va li đầy ắp hồ sơ, giải thích ngắn gọn với bên đối tác, nhận lại hồ sơ của họ giao rồi về ngay. Hồ sơ quá quan trọng nên công ty không thể gửi bưu điện cũng không tín nhiệm các hãng chuyển phát chuyên nghiệp được. Vì tất cả các chuyến bay về Tokyo đều kín chỗ nên tôi phải ở lại một đêm tại khác sạn dành cho doanh nhân ở Sapporo. Ngày hôm đó Kumiko đi phá thai, một mình. Nàng gọi điện đến khách sạn cho tôi sau giờ đêm mà nói: "Chiều nay em đã làm thủ thuật. Em xin lỗi vì chuyện xong rồi mới gọi cho anh, nhưng người ta đã hẹn mà thời hạn gấp quá, hơn nữa em nghĩ chuyện này nếu em tự quyết định và tự lo lấy khi anh đi vắng thì sẽ tốt hơn cho cả hai người."
- Đừng lo nghĩ làm gì, - tôi nói. - Em quyết định thế nào thì cứ thế là tốt nhất.
- Em còn muốn kể với anh nữa, nhưng bây giờ thì không được. Lúc nào đó em sẽ phải kể với anh.
- Anh về rồi mình sẽ nói chuyện.
Sau cuộc gọi, tôi mắc áo khoác rồi ra ngoài lang thang khắp phố xá Sapporo. Mới đầu tháng Ba, hai bên vệ đường san sát những đống tuyết cao ngất ngưởng. Không khí lạnh cắt da, mỗi hơi thở ra đều hóa thành những đám mây trắng xóa rồi biến mất trong nháy mắt. Thiên hạ mặc áo khoác nặng trịch, đi găng, khăn choàng kéo tận cằm, cẩn thận dò từng bước một trên vỉa hè đóng băng. Những chiếc taxi dòng qua dòng lại, lốp xe có đinh chống trượt nghiến rào rạo xuống mặt đường. Khi không chịu nổi cái lạnh nữa, tôi vào một quán bar uống vài ly rồi lại ra ngoài đi bộ thêm lát nữa.
Tôi lang thang rất lâu. Tuyết chốc chốc ào xuống rồi lại dừng, nhưng chỉ là tuyết mỏng, như một ký ức mờ dần vào khoảng xa xôi. Quán bar thứ hai tôi ghé vào nằm thấp hơn mặt đất. Trông cửa vào cứ nghĩ là quán nhỏ, nhưng vào rồi mới thấy hóa ra rộng hơn nhiều. Có một sân khấu nhỏ gần quầy bar, trên sân khấu là một tay gầy gò đeo kính đang vừa đệm ghita vừa hát. Anh ta ngồi trên một chiếc ghế bằng kim loại, bắt tréo chân, hộp đựng đàn đặt cạnh chân.
Tôi ngồi nơi quầy bar, vừa uống vừa lơ đãng nghe nhạc. Giữa hai bài hát, người đàn ông cho biết các bài này đều là của anh ta. Anh ta khoảng gần ba mươi tuổi, gương mặt chẳng có nét gì đặc sắc, đeo kính gọng nhựa màu đen. Anh ta mặc quần jean, đi giày cao cổ buộc dây, áo sơ-mi bằng vải nỉ kẻ ô bỏ ngoài quần. Nhạc của anh ta thuộc loại nào thì khó xác định, có lẽ gọi là nhạc "dân gian" ngày xưa cũng được, tuy là một dạng nhạc dân gian của Nhật. Hợp âm đơn giản, giai điệu đơn giản, ca từ chả có gì đặc biệt. Không phải loại nhạc tôi sẵn sàng ra khỏi nhà để đi nghe.
Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì tôi đã chẳng chú ý đến thứ nhạc này. Chắc tôi sẽ chỉ uống bia, xong thì trả tiền rồi rời quán. Nhưng đêm đó tôi thấy lạnh thấu xương, nên chừng nào chưa ấm người lên thì tôi chẳng có ý định đi đâu hết. Tôi uống một cốc rồi lại gọi cốc nữa. Tôi không cởi áo khoác cũng chẳng cởi khăn quàng. Khi người phục vụ hỏi tôi có muốn ăn gì không, tôi gọi ít phó-mát nhưng chỉ ăn một miếng. Tôi cố suy nghĩ nhưng cái đầu tôi không nghĩ gì được. Thậm chí tôi không biết mình đang muốn nghĩ về cái gì nữa. Tôi là một căn phòng trống. Trong căn phòng đó, âm nhạc kia chỉ làm phát lên một tiếng vang khô khan, trống rỗng.
Khi người đàn ông ngừng hát, có tiếng vỗ tay lác đác, không nồng nhiệt cũng không hẳn là chiếu lệ. Trong quán chỉ có chừng mươi, mười lăm khách, không hơn. Anh chàng đứng dậy cúi chào. Hình như anh ta đưa ra một nhận xét hóm hỉnh nào đó khiến vài vị khách bật cười. Tôi gọi người phục vụ gọi cốc whisky thứ ba. Sau đó rốt cuộc tôi cũng cởi áo khoác và khăn quàng.
- Chương trình của tôi tới đây là hết, - tay ca sĩ thông báo. Anh ta dừng một chút, nhìn quanh phòng. - Nhưng chắc hẳn có vài vị ở đây đêm nay không thích những bài hát của tôi. Với các vị đó, tôi có thêm một tiết mục nho nhỏ. Tôi không hay trình diễn tiết mục này đâu, nên quý vị có thể coi như mình rất gặp may.
Anh ta đặt đàn ghita xuống sàn rồi lấy từ trong hộp đựng đàn ra một cây nến dày màu trắng. Anh ta quẹt diên châm nến, nhỏ vài giọt sáp xuống một cái đĩa rồi dựng đứng cây nến lên. Sau đó, với dáng vẻ như một triết gia Hy Lạp, anh ta giơ cao cái đĩa lên. - Có thể giảm ánh sáng xuống một chút được không? - Một trong các nhân viên vặn đèn nhỏ lại, chỉ để mờ mờ. - Làm ơn tối hơn chút nữa. - Giờ thì trong quán tối hơn nhiều, ngọn lửa nến trong tay anh ta nổi bật hẳn lên. Ấp lòng bàn tay quanh cốc whisky để sưởi ấm, tôi không rời mắt hỏi người đàn ông và ngọn nến của anh ta.
- Như quý vị đều biết, - người đàn ông nói tiếp, giọng anh ta nhỏ nhẹ nhưng nghe rõ, - trong cuộc đời con người ta phải nếm trải nhiều loại đau. Cái đau thể xác và cái đau tâm hồn. Tôi biết tôi đã nếm trải cái đau dưới nhiều hình thức khác nhau, và tôi tin quý vị cũng vậy. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp, tôi cho rằng quý vị thảy đều thấy rất khó truyền đạt sự thực của cái đau đó cho người khác, rất khó giải thích nó bằng lời. Người ta thường nói chỉ có chính họ mới thấu hiểu cái đau họ đang cảm thấy mà thôi. Nhưng có đúng vậy không? Riêng tôi, tôi không tin như vậy. Nếu như ngay trước mắt mình chúng ta thấy ai đó đang thực sự đau đớn, đôi khi chúng ta cũng cảm thấy nỗi thống khổ và cái đau của người đó như của chính mình vậy. Đó là sức mạnh của sự đồng cảm. Tôi nói thế có rõ không?
Anh ta dừng lời, nhìn quanh phòng lần nữa.
- Sở dĩ người ta cất tiếng hát cho người khác là vì họ muốn có cái sức mạnh khơi gợi sự đồng cảm ấy, muốn bứt khỏi cái vỏ chật hẹp của cái tôi đặng chia sẻ nỗi đau và niềm vui của mình với người khác. Nhưng dĩ nhiên, đây không phải việc dễ làm. Vậy nên tối nay, như một các thử nghiệm, tôi muốn quý vị nếm trải một loại đồng cảm khác đơn giản hơn, có tính vật chất hơn. Xin mời vặn sáng đèn lên.
Mọi người trong quán lúc này im phăng phắc, mọi cặp mắt đều dán lên sân khấu. Trong im lặng hoàn toàn, người đàn ông nhìn mông lung vào khoảng không, như để ngừng một chút hoặc để đạt tới trạng thái tập trung tư tưởng. Từng tí một, anh ta đưa lòng bàn tay mỗi lúc một gần hơn đến ngọn lửa. Ai đó trong số khán giả thốt lên một tiếng nghe như tiếng thở dài hoặc tiếng rên. Ta có thể thấy đầu ngọn lửa thiêu đốt lòng bàn tay người đàn ông. Ta hầu như nghe được tiếng thịt cháy xèo xèo. Một phụ nữ bật ra tiếng thét nho nhỏ nhưng chói lói. Những người còn lại ngây ra nhìn cảnh đó. Như bị hóa đá vì khiếp sợ. Người đàn ông cố chịu đựng, mặt anh ta méo xệch vì đau đớn. Cái trò quái quỷ gì vậy? Sao anh ta lại phải làm cái việc ngu xuẩn, vô nghĩa này? Tôi cảm thấy miệng mình khô khốc. Sau chừng năm, sáu giây, anh ta chầm chậm rút tay ra khỏi ngọn lửa rồi đặt chiếc đĩa cắm cây nến xuống sàn nhà. Đoạn anh ta úp hai bàn tay vào nhau, lòng bàn tay phải và lòng bàn tay trái ép chặt vào nhau.
- Thưa quý ông quý và, như quý vị đã thấy đêm nay, cái đau thực, sự có thể thiêu đốt thịt người, - anh ta nói. Giọng anh ta nghe vẫn như trước: nhỏ nhẹ, đều đều, bình thản. Không còn dấu vết đau đớn nào trên mặt anh ta. Thay vào đó là một nụ cười yếu ớt. - Và cái đau ắt hẳn vừa xảy ra ở đây, quý vị đã có thể cảm thấy như là cái đau của chính mình. Đó là sức mạnh của sự đồng cảm.
Người đàn ông tách hai bàn tay ra. Từ giữa hai bàn tay anh ta rút ra một chiếc khăn choàng mỏng màu đỏ, mở rộng ra ọi người đều thấy. Đoạn anh ta chìa hai lòng bàn tay về phía khán giả. Không có vết bỏng nào hết. Căn phòng lặng đi một lát, rồi mọi người bày tỏ sự nhẹ nhõm bằng một tràng vỗ tay cuồng nhiệt. Đèn bật lên, tiếng lao xao trò chuyện thay cho sự căng thẳng mới đây còn đầy ắp căn phòng. Như thể không có chuyện gì xảy ra, người đàn ông xếp đàn vào hộp, bước khỏi sân khấu rồi biến mất.
Khi trả tiền, tôi hỏi cô gái đứng nơi quầy bar xem người đàn ông nọ có thường hát ở đây không, anh ta có hay biểu diễn trò vừa rồi không.
- Em không rõ, - cô ta nói. - Theo em biết thì đây là lần đầu tiên anh ta tới đây. Trước nay em chưa hề nghe tới anh ta. Chẳng ai bảo em rằng anh ta biết diễn ảo thuật. Mà hay quá phải không anh? Chẳng biết anh ta làm thế nào nhỉ. Em dám cá anh ta sẽ là nhân vật ăn khách trên ti-vi đấy.
- Đúng vậy, - tôi nói. - Trông cứ như anh ta đang đốt tay mình thật.
Tôi đi bộ về khách sạn, ngay lúc tôi leo lên giường thì lập tức giấc ngủ ập tới như thể nãy giờ chỉ đợi có thế. Trong lúc chập chờn, tôi nghĩ đến Kumiko, nhưng nàng ở xa lắm, sau đó thì tôi không nghĩ gì được nữa. Trong trí tôi hiện lên hình ảnh khuôn mặt người đàn ông đang đốt tay mình. Đúng là cứ như anh ta đang đốt tay mình thật, tôi nghĩ. Rồi tôi chìm vào giấc ngủ.