Ánh Sáng Cuối Con Đường

chương 403: thượng huyết tộc ngồi nơi tồi tàn

Truyện Chữ Hay
Tùy Chỉnh
Truyện Chữ Hay

(Tên gốc của chương : Highbloods in Low Places)

GÓC NHÌN CỦA CAERA DENOIR

Những đám mây đen dày đặc biến ngày thành đêm, rồi dồn dập trút những cơn mưa tầm tã xuống mọi nẻo đường ở thành phố Aensgar thuộc khu vực Redwater này. Thành phố yên lặng một cách ghê rợn dưới lớp mưa dầm dề, sự yên ắng đó chỉ bị phá vỡ bởi tiếng lục cục đến từ mấy cái bánh xe thồ lăn trên những hòn sỏi ướt thẫm hoặc tiếng hét hiếm hoi từ người nào đó xui xẻo bị mắc kẹt trong cơn bão khi đang lao nhanh tới chỗ họ cần.

Tôi chỉ có gần một tuần để hiểu và chấp nhận mọi sự kiện xảy ra ở vùng Sehz-Clar, nhưng tốc độ điều động gấp gáp của cô Seris đã khiến tôi có ít thời gian hơn để suy ngẫm. Tuy nhiên, tôi vẫn biết rằng tình hình đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc. Trên thực tế, tôi nhận thấy mình đi ra đây như thể đang tìm cớ thoái thác, bất chấp nguy hiểm nằm bên ngoài mấy lớp khiên phép ở vùng Sehz-Clar lúc này.

Nhận ra con phố đang tìm, tôi kéo mũ trùm đầu sau áo choàng lên che mặt và ẩn đi dấu hiệu mana của mình trước khi thận trọng men theo rìa ngoài quanh một quán trọ lớn ba tầng. Ánh sáng lờ mờ do bị lọc qua những tấm kính cửa sổ đã ố vàng, tiếng bàn tán ồn ào vang vọng từ mấy gã say rượu đang nói chuyện và cười đùa bên trong như tràn ra đường từ cánh cửa mở ngỏ.

Tôi nhìn lướt qua con hẻm đằng sau nhà trọ, nhưng ngoài đống rác thường thấy do tụi nhân viên quá bận rộn ném đại ra thì chẳng còn gì khác cả.

Len sát người dọc theo bức tường phía sau tòa nhà này, tôi nép mình vào một hốc tường hẹp đằng sau cái cửa phụ của nhà trọ và chờ đợi, ngắm nhìn đường phố. Chẳng có ai đột nhập vào chỗ này từ đoạn đầu hẻm cả, và con phố bên kia vẫn vắng vẻ chỉ có cơn mưa đang văng nước tung tóe. Tự tin rằng không bị ai theo dõi, tôi yên tâm mở cửa và chui vào bên trong quán tối lờ mờ.

Tôi thấy mình đang đứng trong một hành lang hẹp. Ở một bên tường, tiếng ồn ào huyên náo do trộn lẫn từ nhiều loại âm thanh của quán bar như làm rung lên mấy bức vách mỏng, và một loạt các cánh cửa mở ra dẫn tới các kho chứa và những khu phòng riêng của chủ quán thì ở bên tường còn lại.

Khi tôi đi ngang qua mấy chỗ này, tiếng thầm thì của những giọng nói nhỏ nhẹ đang len lỏi vào nhận thức của tôi, một cách đầy tinh tế ẩn dưới những tiếng ồn to hơn từ chỗ quán bar. Những giọng nói này phát ra từ một căn phòng ở cuối hành lang.

Tôi thận trọng tiến đến gần cánh cửa nằm tận cuối, và các giọng nói dần dần lớn hơn cho đến khi tôi có thể nghe rõ từ ngữ giữa nhiều tiếng ồn ào nói chung ở nhà trọ này. Một vệt sáng nhỏ phát ra từ khe trống giữa hai tấm ván trên tường, và khi tôi liếc mắt vào kẽ hở đó, tôi có thể thấy một phần nhỏ không gian căn phòng cùng với vài người đang nói.

Tôi mém xíu là cười lớn thành tiếng rồi.

Từ góc nhìn mà tôi thấy được thì mỗi người ở đây đều ăn mặc phô trương hơn lần gặp gần nhất. Tôi tự hỏi là sao họ không lôi hết người trong huyết tộc, đám hầu với lũ quái mana họ có đến chung cả lũ luôn đi cho đủ bộ. Ta có thể bỏ qua lối suy nghĩ rằng một cuộc họp tối mật lẫn lén lút như này là thời điểm thích hợp để ăn mặc đẹp, nhưng rõ là lũ thượng huyết tộc (highblood) kia không thể cưỡng lại việc nhân dịp này để khoe khoang sự giàu có của bản thân, ngay cả khi chỉ có mấy người bọn chúng với nhau.

Mặc dù vậy, một dãy áo choàng ướt sũng nước mưa được treo trên móc ở bức tường đằng sau như để ghi nhận công lao tụi này lết đến tận đây.

“Sứ giả của bà Scythe Seris Vritra đến muộn,” một lão lớn tuổi nói. Chòm râu dê màu vàng rậm rạp dưới cằm lão đã gần ngả hết sang trắng, nhưng ánh mắt lão lườm quanh phòng thì sắc bén như dao. Tôi nghĩ đây là lãnh chúa Uriel của Thượng huyết tộc Frost, nhìn một phát là nhận ra lão ấy ngay tức thì.

Một người đàn ông trẻ hơn nhiều, tóc đen và lồng ngực to rộng, giọng cười trầm và có vẻ nguy hiểm. “Đại lãnh chúa nhà Frost à, ta đang bàn về một Scythe đấy.” Hắn ta gõ lộp cộp mấy ngón tay xuống chiếc bàn xước chằng chịt chiếm gần trọn vị trí cuối phòng. “Mặc dù tôi cho là danh hiệu như vậy không còn phù hợp nữa. Dù giá nào chăng nữa, người đại diện của bà ấy cũng sẽ đến, và khi họ đến, họ sẽ tự cân nhắc đến thật đúng lúc. Điều thực sự cần phải hỏi là tại sao họ lại chọn một địa điểm xoàng xĩnh và lôm côm như chỗ này để họp mặt.”

Lông mày rậm của Đại lãnh chúa Frost nhướng lên khi lão ta cân nhắc những lời người đàn ông trẻ hơn kia vừa nói. “Tôi cho rằng ngài đúng, Lãnh chúa Exeter. Mặc dù vậy, nếu bà Scythe… à, Quý bà Seris đang mong giành được thiện cảm từ chúng ta, có lẽ bà ấy nên bắt đầu từ việc đối xử với chúng ta tốt hơn những người đồng hương (compatriots) trước đây của bà ấy.”

Một giọng nữ điềm tĩnh của ai đó mà chỗ tôi đang đứng nhìn hiện tại không thấy được xen vào nói, “Ôi thật sao, Uriel. Cả đời ngài đã bao giờ bị đối xử tệ bạc chưa? Sinh ra đã là một người thuộc thượng huyết tộc và thừa kế danh hiệu Đại lãnh chúa, sự thành công và quyền lực của ngài gần như là được định đoạt từ trước. Tôi cho là ngài đã nghe câu chuyện ví von về cái thìa bạc rồi chứ?”

(Người dịch: “Ngậm thìa bạc” là một cụm từ nghĩa là “rất giàu có do hưởng từ thừa kế”, tầng lớp quý tộc ngày xưa suốt đời ăn uống dùng thìa nĩa bằng bạc. Thậm chí đi qua nhà quý tộc khác ăn tiệc cầm riêng một bộ dao nĩa muỗng cá nhân như bạn cầm theo bàn chải đánh răng. Mục đích là để tránh bị ám sát bằng hình thức đầu độc, và thêm nữa chỉ có người giàu mới có tiền dùng các dụng cụ ăn uống bằng bạc)

Có vài lời cười nhạo kiểu chế giễu đến từ những người đàn ông đang đứng trước mặt tôi.

Đại lãnh chúa Frost trở nên cau có, cái nhìn như thể làm đông cả máu của hầu hết người dân Alacrya. “Một số người trong chúng ta đã may mắn được sinh ra ở ngay vị trí hiện giờ của mình, trong khi những người khác đã chiến đấu và đổ máu để tìm cách bò lên từ vị trí cặn bã của đám không huyết thống.” Giọng điệu của lão trở nên nhẹ hơn, giảm âm đến mức chỉ vừa đủ nghe. “Nhưng giờ tất cả chúng ta đều là thượng huyết tộc, cô Matron Tremblay à. Và mọi người ở đây vì có chung mục đích. Tôi hoài nghi rằng nếu huyết tộc của cô mà có mối quan hệ tốt với các Scythe và những Chúa Tể, thì cô đã không đáp lại lời mời của bà Seris.”

“Nói hay đấy, Uriel,” một trong những người khác lên tiếng, đó là một người đàn ông trẻ tuổi đang đứng quay lưng lại với tôi nên tất cả những gì tôi có thể thấy là mái tóc đuôi ngựa được cột chặt của anh ta.

“Ôi, quả là chính xác,” Matron Tremblay trả lời với giọng đầy trêu chọc. “Ngài đúng thật là hình mẫu chuẩn mực cho thấy sự ngụy biện có chất lượng là như thế nào.”

Tôi lùi khỏi khe hở trên tường và đi về phía cửa, quyết định lộ diện bản thân trước khi mọi chuyện leo thang hơn nữa.

“Nếu cô có bất bình gì với tôi hoặc huyết thống nhà tôi, thì phun ra đi, Maylis,” giọng Đại lãnh chúa Frost vang lên ầm ầm xuyên qua bức vách xập xệ.

“Đừng bận tâm đến cô ấy, hỡi Đại lãnh chúa Frost. Lũ máu tươi (newblood) này không kính trọng lắm với lớp người đi trước đâu,” Lord Exeter nói.

Tôi mở cửa phòng ra và thấy một người phụ nữ cao lớn, lực lưỡng đang đứng dậy. Cô ta chỉ một ngón tay về phía mấy người đàn ông ở đầu bàn bên kia và miệng há ra nhép thành khuôn như chửi thầm bằng kiểu câu xúc phạm nào đấy mà chẳng nghi ngờ gì đã luyện trước rất kĩ. Nhưng đôi mắt màu đỏ sậm (burgundy) lại đảo sang tôi, cặp mắt ấy sáng và to quá khổ trên khuôn mặt rám nắng, và cô ấy dừng lại việc chửi lại.

(Người dịch: trong tiếng Anh có một loại màu đỏ là đỏ burgundy vì đó là màu đỏ từ rượu vang của vùng Burgundy. Các bạn có thể tra hex code (mã màu) của đỏ burgundy trên google là )

“Caera hả?” cô ta hỏi một cách hoài nghi.

Tôi chú ý vào cặp sừng ngắn mọc từ trán rồi cong ra sau, nhô ra từ chỗ gốc của mái tóc màu đen xanh bóng bẩy, mà cô ấy đã búi lại kéo thành đuôi sau lưng. Cô ấy mang dòng máu Vritra. Nhưng tên huyết tộc của cô ta, Tremblay, không nổi tiếng. Rồi thì, tuy có hơi muộn màng, nhưng tôi nhận ra mình cũng đã nghe thấy tên của cô ấy khi nãy.

“Maylis…” Tôi chợt nhớ đến một hình dáng trẻ hơn nhiều của người phụ nữ dữ tợn đang đứng trước mặt tôi đây, đã từng là một thiếu nữ da bọc xương với mái tóc đen xanh dài đến tận đầu gối. “Tôi thấy huyết thống của cô đã bộc lộ ra ngoài.”

(Người dịch: “huyết thống” ở đây là đề cập đến huyết thống Vritra được bộc lộ ra ngoài khi những đứa con lai mang dòng máu Vritra trong người, biểu hiện rõ nhất là mọc sừng)

Cô ấy gật đầu lia lịa, rõ ràng rất hào hứng và hăng hái muốn nói chuyện, nhưng giờ mấy gã đàn ông ở đây đã đứng lên cả, và cả hai chúng tôi dường như đều nhận ra cùng một lúc rằng đây không phải là thời điểm để đoàn tụ. Nén lại nụ cười, cô ấy ngồi xuống.

Ở phía bên kia căn phòng, một vài người đàn ông cúi đầu chào tôi cho có lệ, nhưng hầu hết họ đều nhìn chằm chằm một cách thận trọng.

Chỉ có Lãnh chúa Exeter lại gần, nhanh chóng đi tới và đưa tay ra. Tôi định bắt tay lắc, nhưng ông ta xoay bàn tay tôi úp xuống và kéo nó về phía ông ta. Tôi chỉ có thể đứng nhìn với vẻ ngạc nhiên, bối rối và hơi khó chịu nhẹ khi hắn ta áp môi vào mặt trên găng tay tôi.

Maylis khịt mũi.

(Người dịch: “khịt mũi” ở đây là hành động thở hắt ra kiểu cười khẩy tỏ vẻ khinh bỉ)

“Lạy ơn sủng của Chúa Tể, Tiểu thư Caera từ Thượng huyết tộc Denoir, cô đang làm gì ở đây thế?” anh hỏi, đôi mắt nhìn với vẻ dâm đãng và mở to vì ngạc nhiên.

“Bộ không phải quá hiển nhiên rồi sao?” một giọng nói khò khè cất lên, thu hút tôi hướng mắt đến một gã thượng huyết tộc trông lùn mập và hói đầu, mặc áo choàng chiến màu tím và bạc. “Đây là một kiểu gài bẫy nào đó! Bọn Denoirs đã lên tiếng phản đối tình hình ở Sehz-Clar—”

Một tiếng cười ngắn vang lên từ Đại lãnh chúa Frost ngắt lời lão già đang thở khò khè. “Đại lãnh chúa Seabrook à, tôi đang nghĩ rằng đó là lý do tại sao cô gái này lại ở đây, thay vì người thừa kế như Lauden, hay thậm chí đích thân Đại lãnh chúa Denoir. Kiểu hai chân hai xuồng, tôi nghĩ thế.”

Tôi soi thẳng ánh nhìn lạnh lùng không chớp mắt về phía bàn trong phòng. “Cái ‘cô gái’ này ở đây bởi vì chính cô Seris đã chọn tôi tới đây để truyền lại thông điệp từ cô ấy. Tôi là sứ giả mà các ngài đang đợi.” Tôi tập trung vào cái mặt đỏ sậm như mận chín của gã đàn ông mà giờ tôi đã biết là Đại lãnh chúa Sebastien Seabrook. “Và, thưa ngài Đại lãnh chúa, nếu đây mà là một cái bẫy nào đó, thì các ngài đã tự buộc tội chính mình vì sự thiếu thận trọng đến kinh ngạc rồi.”

Đứng kế tôi, Lãnh chúa Exeter trông tái nhợt đi như bóng ma vậy. Hắn ta lùi lại chừng nửa bước, va vào cái bàn, nói lắp bắp điều gì đó không mạch lạc, rồi thì cuối cùng cũng cố phát ra được thành lời, “Khoan đã, gì chứ?”

Nhỏ Maylis cười toe toét đầy xảo quyệt. “Sao thế Zachian? Ngài đã rất hăng hái thể hiện mình là một kẻ huênh hoang tùy hứng đầy ngớ ngẩn mới vài phút trước cơ mà.”

Câu nói này dường như kéo hắn ta ra khỏi sự ngạc nhiên của chính mình. Hắn giũ hai bên vạt áo khoác cho thẳng thớm lại và hếch mũi lên. “Thứ lỗi cho tôi, Tiểu thư nhà Denoir. Tôi đã làm gián đoạn cuộc họp. Xin mời vào,” hắn nói và vẫy tôi vào phòng. Rồi hắn lườm Maylis như muốn đốt cháy cô ta trước khi quay trở lại chỗ ngồi của mình.

“Đúng thật là chúng ta dường như có phần hơi chệch đi mục đích của mình ở đây,” Đại lãnh chúa Frost nói sau một hồi im lặng kéo dài do vụ vừa nãy. “Nếu cô thực sự đến vì thay mặt cho Quý bà Seris, xin hãy cho mọi người biết, chính xác thì bà ấy hy vọng sẽ đạt được điều gì với hành động nổi loạn này?”

Tôi biết mục đích câu hỏi này nhằm dẫn dắt chúng ta vào cuộc trò chuyện hơn là tìm kiếm câu trả lời thực sự. Từng thành viên thượng huyết tộc ở đây đã nhận được nhiều thông cáo (missives) từ cô ấy rồi, điều này đã giải thích cho mục đích của cô Seris. Họ biết cô ấy đang cố làm gì, nhưng điều họ thực sự muốn là cân đo xem liệu cô có thể thành công hay không. Và, có lẽ điều quan trọng hơn đối với họ là các dòng họ thượng huyết tộc đây sẽ phải trả giá cỡ nào để hỗ trợ cô ấy chống lại tên Agrona.

“Mời các ngài ngồi xuống và tôi sẽ trả lời bất kỳ câu hỏi hợp lý nào mà các ngài có,” tôi nói dứt khoát. Tôi cố giữ cho sự hiện diện rõ ràng của mình ở đây trong phong thái đĩnh đạc và tự tin nhưng không cứng nhắc.

(Nguyên văn: “I’ll answer any sensible questions you might have”. Chữ ‘sensible’ được tác giả dùng với nhiều nghĩa như: ‘câu hỏi hợp lý’, ‘câu hỏi biết điều’ (không hỏi đểu), ‘câu hỏi đáng trân trọng’ (câu hỏi có thể đo đếm được mức độ có giá trị của nó). Nhìn chung một cụm từ nhưng Caera gửi đi vài lớp ý nghĩa trong đó)

Thông thường thì, trong một căn phòng có rất nhiều tên thượng huyết tộc như này, phong thái lịch sự được luyện tập kĩ lưỡng mà cha mẹ nuôi đã mãi dũa cho tôi sẽ được tận dụng, nhưng tôi không ở đây chỉ để đơn thuần vượt qua những mưu gian kế hiểm kiểu phổ biến thường thấy trong chính trị của đám quý tộc. Nếu bọn chúng xem tôi là kẻ hạ đẳng (lesser) dưới quyền chúng - hoặc thậm chí ngang hàng với chúng thôi - thì việc đạt được mục tiêu của tôi hoàn toàn là điều bất khả thi.

Tôi ở đây với tư cách là sứ giả của cô Seris, và cô đã đặt nhiều kỳ vọng ở tôi.

Đám thượng huyết tộc di chuyển tinh tế như đang múa để xem xem ai sẽ ngồi trước và ngồi đâu, chúng dần ngồi đầy quanh cái bàn dài sứt sẹo, ố màu. Có tám kẻ đại diện cho các dòng dõi thượng huyết tộc khác nhau thể hiện sự hứng thú có phần dè dặt với thông điệp từ cô Seris. Tôi giữ thế đứng chứ không ngồi với hai tay vắt sau lưng và cố tình để cảm giác hơi thiếu kiên nhẫn lộ ra rõ trên nét mặt của mình.

Gã lãnh chúa Exeter nhanh chóng ngồi xuống chỗ lưng chừng bàn ở phía cuối. Ánh nhìn vặn vẹo của hắn liên tục hướng về phía Maylis, và mặc dù tỏ ra bình tĩnh về bề ngoài, nhưng tôi có thể cảm nhận được sự nóng giận đang sôi sục trong lòng hắn. Tôi chưa từng nghe về Thượng huyết tộc Exeter, nhưng nhân lúc hắn chế nhạo Maylis về việc là “máu tươi”, tôi nghi rằng chính hắn là kẻ mới phất gần đây. Nhiều khả năng, dòng họ nhà hắn là huyết tộc loại xoàng đến từ vùng Sehz-Clar hoặc Etril, nổi lên nhờ lượng đất đai mà bọn chúng tìm cách xoay được thay vì nhờ sức mạnh trong chiến tranh hoặc thành công khi làm ascender.

Đại lãnh chúa Frost ngồi vào đầu bàn đối diện với chỗ tôi đứng. Tôi đã gặp một vài người từ huyết tộc của lão ở Học viện Trung tâm, và nhà Frost thi thoảng làm ăn với nhà Denoir. Tôi đã khá ấn tượng với cháu gái của lão là Enola, người đã giành chiến thắng trong trận đấu của cô bé tại đại hội Victoriad.

Đại lãnh chúa Seabrook, người đàn ông mập mạp có làn da tím tái với giọng thở khò khè, ngồi bên trái lão Frost. Gã này đang nhìn chằm chằm vào tôi và nhai nhai bên má của mình một cách lơ đễnh.

Bên trái ông ta là con trai thứ hai của Thượng huyết tộc Umburter, người mà tôi không thể nhớ được tên. Anh trai hắn, tôi biết gã, đã đến lục địa Dicathen để xử lý công việc của huyết tộc. Sự thật việc hắn ta ở đây thay mặt bố là Đại lãnh chúa Gracian Umburter, gợi ý rằng bọn họ đơn giản chỉ đang dò xét thái độ mọi người. Thôi thì ít ra nhà Exeter cũng đã gửi người thừa kế của họ đến đây.

(Nguyên văn: “At least the Exeters had sent their heir.” Hình như chỗ này tác giả đánh máy nhầm từ ‘Umburter’ sang ‘Exeter’. Bởi vì hai đoạn văn trên dưới đang nói về Umburter tự nhiên xen một câu Exeter vô duyên vào giữa)

Dù sao, gửi thằng bé nhà Umburter đi vẫn còn cao hơn một bậc so với gửi gã đàn ông sắp già đứng kế bên. Kẻ quản họ (chamberlain) cho Góa phụ Clarvelle, tôi nghĩ tên ông ta là Geoffrey. Thượng huyết tộc Clarvelle đã từng rất thân thiết với nhà Denoir hồi tôi còn nhỏ, nhưng sau một vài bất đồng xảy ra giữa mẹ nuôi tôi và Góa phụ Clarvelle đã dẫn đến việc hai huyết tộc này tách xa nhau ra. Với tư cách là kẻ quản họ, gã Geoffrey là một thành viên được tin cậy của cái gia tộc này, nhưng cử ông ấy đến một cuộc họp như vậy gần như là cố ý xúc phạm.

(Người dịch: từ “chamberlain” ở một số từ điển dịch là “‘viên thị thần’ là không chính xác. Từ này ám chỉ người lo việc trông nom cả một căn nhà và quản lý luôn các người hầu, lính tráng của nhà quý tộc đấy. Từ ‘quản gia’ trong tiếng Việt cũng không chính xác vì quản gia là người chỉ chăm nom những vấn đề liên quan đến căn lâu đài nào đó. Nói nôm na, lão ‘gần’ già tên Geoffrey này không mang họ Clarvelle nhưng là cánh tay phải của bà góa Clarvelle này. Từ ‘kẻ quản họ’ là tạm dịch vì không có nghĩa cho từ ‘chamberlain’ trong tiếng Việt)

Chúng ta lẽ ra phải cẩn thận với đám nhà Clarvelle.

Ở phía bên kia bàn, Đại lãnh chúa Ector Ainsworth ngồi bên phải Đại lãnh chúa Frost. Dù ở độ tuổi lục tuần, lão Ector vẫn có mái tóc đen tuyền, ngoại trừ một vệt trắng bạc nhẹ ở thái dương và chạy dọc hai bên mang tai xuống chùm râu dê được được chải chuốt cẩn thận. Cho đến giờ, lão ấy vẫn im lặng, tính từ trước cuộc họp này và kể cả từ khi tôi đến, nhưng đôi mắt xám thông minh dường như đang cố phân tích tôi kĩ lưỡng từ tận đầu bên kia căn phòng.

Cạnh lão, một người đàn ông trông có vẻ co giật, căng thẳng đang nghịch ngợm rìa ống tay của áo choàng. Gã ta liên tục liếc Đại lãnh chúa Frost như thể đang cố thu hút ánh nhìn của lão ta. Tôi đã nhìn thấy lưng gã này khi tôi nhìn từ ngoài hành lang, nhưng bây giờ tôi đã nhận ra cái mũi nhọn như diều hâu quặp xuống và đôi mắt có vẻ khác thường với một bên màu đỏ tươi, con ngươi còn lại màu nâu đục.

“Tiểu thư Caera…” gã nói nhỏ nhẹ khi nhận ra tôi đang nhìn gã ta, mặc dù mắt gã ta tập trung xuống mặt bàn chứ không phải nhìn vào tôi.

“Lãnh chúa Redwater,” tôi đáp trả, gật đầu một cách lịch sự.

Cái gã tên Wolfrum từ Thượng huyết tộc Redwater là một kẻ dòng máu Virtra được nhận nuôi giống như tôi. Các anh chị em nuôi của chính gã— gồn bốn trai và một gái — đều đã chết một cách bi thảm trong Khu Tàn Tích (Relictombs). Vì dòng máu Vritra trong người gã chưa bao giờ bộc lộ ra, nên gia tộc Redwater được phép xứng tên gã thành kẻ kế thừa cho dòng họ thượng huyết tộc này—một huyết thống rất cổ xưa lấy tên từ con sông chảy cách nhà trọ này không đến nửa dặm—để dòng dõi này vẫn tiếp tục tồn tại.

Tôi đã gặp gã, giống như nhỏ Maylis, tại “buổi tụ họp” của những đứa trẻ được nuôi dưỡng mang dòng máu Vritra mà tôi đã bị buộc phải tham dự khi còn nhỏ. Tôi nhớ hắn ta là một chàng trai vụng về, không hòa đồng, nổi bật hẳn giữa lũ người có dòng máu Vritra tự cho mình là quan trọng.

“Trước khi chúng ta bắt đầu,” tôi nói khi quét mắt khắp phòng, “có hai điều tôi phải làm rõ ngay tức khắc. Đầu tiên, đây không phải là một cuộc chiến để thay thế một tên bạo chúa này bằng một bạo chúa khác. Cô Seris không tìm cách trở thành Chúa tể Tối cao cai trị toàn lục địa Alacrya, hay thậm chí là cai trị bất cứ thứ gì cả.”

Đại lãnh chúa Seabrook làm cả một chuỗi đảo mắt và nhìn qua bàn về phía Đại lãnh chúa Ainsworth với nụ cười ngu ngốc nở trên khuôn mặt.

Lão Frost đặt mấy ngón tay đè lên bàn và nghiêng người về phía tôi. “Vậy là như thông cáo của bà ấy đã giải thích rồi. Cho đến nay, bà ấy đã tự tô vẽ mình như một… chiến binh tự do, dẫn đầu cuộc nổi dậy này vì lợi ích của người dân Alacrya.” Gã Wolfrum lúng túng cười khúc khích nhưng im bặt sau khi nhận ra mình là người duy nhất cười ở đây. “Tôi xin yêu cầu cô nói rõ ra, dựa trên danh dự của một người thuộc gia tộc Denoir. Mục đích thực sự của bà Seris là gì, và tại sao chuyện lại xảy ra bây giờ, trong thời điểm hỗn loạn này cơ chứ?”

“Liệu nó có liên quan gì đến tình hình đột ngột đảo chiều xảy ra ở lục địa khác không?” Gã Seabrook nói xen vào. “Tôi đã mất mười nhóm chiến đấu trong thành phố Vic… à… tên là gì cũng được,” gã ta kết thúc nốt câu một cách què cụt.

“Điều thứ hai mà tôi đã được cô Seris chỉ đạo phải làm rõ là,” tôi tiếp tục, phớt lờ câu hỏi của họ lúc này, “đây không phải chỉ là sự phản kháng mang tính tượng trưng cho có. Ngài hỏi tại sao lại là bây giờ ư, Đại lãnh chúa Frost? Vì đây là cơ hội cuối cùng của chúng ta.” Tôi chống tay lên bàn và lần lượt bắt gặp từng ánh mắt của bọn họ. “Cuộc chiến tranh với các tộc asura khác đang được ấp ủ này sẽ quét sạch thế giới của chúng ta nếu ta không ngăn chặn nó.”

Giọng cả đám Umburter, Seabrook, Exeter và Frost đều đồng thanh vang lên khi bọn chúng đều cố nói cùng một lúc.

“—ngớ ngẩn—”

“—không thể đảm bảo rằng—”

“—ngăn nó lại cho dù—”

“—tin đến một lời vô nghĩa đó!”

Tay tôi dọng mạnh xuống bàn. Kết quả là tạo ra tiếng một vết nứt ngắt ngang tiếng bàn tán ồn ào như tiếng đòn phép đang niệm, và mấy gã người đàn ông im lặng, mặc dù tôi vẫn phải lườm hai gã Umburter và Seabrook với vẻ thù hằn để họ ngừng nói.

“Hãy áp dụng chính mấy bài học về phép lịch sự mà các vị thường bắt buộc huyết tộc mình tuân theo,” tôi lạnh lùng nói, ánh mắt quét qua đám thượng huyết tộc kia. “Đừng ngắt lời tôi thêm lần nữa.”

Cả căn phòng im ắng như ngầm thừa nhận sự thô lỗ của bọn họ. Tôi đợi khoảng ba nhịp thở trôi qua, rồi tiếp tục nói. “Có rất ít kẻ có thể tuyên bố là hiểu được suy nghĩ của gã Agrona Vritra, nhưng cô Seris là một trong số những người như thế. Hắn ta sẽ đốt cháy thế giới này như rơm rạ để trở về vùng đất của các asura, và tất cả chúng ta sẽ cháy cùng với nó. Những kẻ còn lại trong các Scythe và đám Chúa tể (Sovereign) đã sẵn sàng để theo hắn đến tận cùng, nhưng cô Seris thì không.”

“Và—xin các vị lãnh chúa cao quý ở đây thứ lỗi cho tôi lên tiếng,” Gã quản họ Geoffrey nói với giọng trầm trầm của ông ấy, “sự biến mất của hai Chúa tể Orlaeth và Kiros Vritra đóng vai trò gì trong cuộc nổi loạn này? Người ta đồn thổi đủ loại tin tức kỳ lạ.” Đôi mắt sắc bén của ông ta nheo lại khi quan sát tôi kỹ lưỡng để tìm câu trả lời. “Tôi thậm chí còn nghe rằng bằng cách nào đó bà Seris đã ám sát họ… với sự giúp đỡ của người đàn ông mắt vàng từ đại hội Victoriad.”

Tôi đã sẵn sàng cho câu hỏi này—và đề cập đến chuyện anh Grey. Mấy cái lưỡi kia vẫn chưa ngừng ngeo nguẩy nói về sự xuất hiện như chẳng biết từ đâu ra của anh ấy tại vụ Victoriad. Cũng có những người nghi ngờ anh đã làm gì đó dính đến cái vụ hủy diệt ở vùng Vechor, mặc dù các nguồn tin chính thống đã tuyên bố rằng đây là một tai nạn bi thảm do một đồ tạo tác (artifact) lấy về từ Khu Tàn Tích.

“Chúa tể Kiros hiện đang bị xích lại bên dưới pháo đài Taegrin Caelum,” tôi nói dứt khoát, đứng thẳng và khoanh tay trước ngực. “Về phần Chúa tể Orlaeth, thì…” Chuyện này, cô Seris vẫn chưa sẵn sàng tiết lộ toàn bộ sự thật, vì sợ rằng, nếu mấy lời này mà bay đến tai Agrona, bằng cách nào đó nó có thể giúp hắn vô hiệu hóa được hệ thống phòng thủ của cô ấy. “Chỉ cần biết rằng hắn ta đã bị tước hết sức mạnh, nhưng chưa bị giết.”

(Nguyên văn: “but not killed”, dịch sát nghĩa là ‘nhưng không bị giết’, mà trong văn phong tiếng Việt người ta thường nói là ‘nhưng chưa bị giết’ nó mới thuận mồm với tư duy người Việt. Tuy nhiên các bạn cũng biết rằng ‘không’ và ‘chưa’ là hai nghĩa hoàn toàn khác nhau, vì thế mình lưu ý thêm ở đây để các bạn hiểu nghĩa gốc câu)

Cả đám thượng huyết tộc tụ tập ở đây nhìn chằm chằm lẫn nhau, biểu cảm của họ chủ yếu xếp vào mức hoài nghi. Lão nhà Ainsworth hơi đổi tư thế ngồi. Lão gia tộc Frost thì tựa lưng vào thành ghế khiến nó kêu cót két. Tên con trai nhà Umburter lại chọn một mảnh gỗ ở cạnh bàn và cau mày nhìn nó, tỏ vẻ chán ghét.

“Vậy bà Seris muốn gì ở chúng tôi?” Nhỏ Maylis hỏi. Cô ta ngả người ra sau cái ghế gỗ của quán rượu, chân này vắt chéo lên chân kia, mấy đầu ngón tay mân mê đằng chuôi cầm bằng vàng của con dao găm.

“Hiển nhiên là cần binh lính rồi,” Gã nhà Seabrook gáy ầm lên trước khi tôi kịp trả lời.

“Không, bà ấy cần tính hợp pháp,” Lão Ainsworth nói câu trả lời của mình ra, đây là mấy lời đầu tiên lão nói kể từ khi tôi đến. “Cần sự hỗ trợ để củng cố quan điểm rằng đây không chỉ là một cuộc nổi dậy mới bùng phát nhằm đến cái đích là kết thúc trong đột ngột và bạo lực.”

“Nhưng liệu nó có phải như thế không?” Gã Wolfrum hỏi, nhìn qua chỗ lão Frost tìm kiếm sự tán đồng.

Lão già lớn tuổi nhưng lực lưỡng gật đầu với gã Wolfrum. “Cậu Redwater trẻ tuổi đây hỏi một câu rất hay. Mặc dù tôi không hèn nhát đến mức từ chối nói ra miệng rằng lục địa này có nhiều vấn đề sâu xa, nhưng thực tế là chúng ta đang được cai trị bởi các vị thần theo đúng nghĩa đen. Mọi người trong chúng ta đều đã được xem các chương trình phát sóng liên miên về sự đổ nát do các cuộc tấn công của đám asura để lại ở lục địa Dicathen. Và Chúa tể Tối cao có nhiều người thuộc tộc Vritra như vậy dưới quyền chỉ huy của ngài, với mỗi tên đều có khả năng nghiền nát mọi đạo quân. Chẳng có ai đứng lên chống lại điều đó được.”

Nắm lấy cái ghế đặt gần nhất, tôi xoay nó quay ngược chiều lại và ngồi xuống, hai tay gác lên chỗ tựa lưng. “Tôi mừng là ngài nhận thức được rằng những lâu đài mà tất thảy chúng ta đang sống đều được xây bằng cát.” Lời tuyên bố này lại vấp phải một loạt ánh nhìn qua lại lẫn nhau và xì xào bàn tán. “Được xây nên đẹp đẽ và đầy chất thủ công trông thì đáng yêu đấy, nhưng nó chỉ đứng vững vì một tên Chúa tể nào đó vẫn chưa quyết định đánh sập nó thôi. Huyết tộc các ngài được lợi gì nếu, thậm chí dù chẳng có lấy tí xíu xúc phạm nào, nhưng một vị thần vẫn cáu kỉnh mà chẳng cần lý do, có thể thổi bay cái lâu đài đó chỉ bằng một hơi thở, rồi kế đến là hoàn toàn quên lãng các ngài?”

(Nguyên văn: “my arms on the backrest”. Để mình giải thích cách Caera ngồi trước mặt đám thượng huyết tộc này. Em ấy xoay mặt lưng ghế lại để ngồi ngược, kiểu lưng ghế đối diện với cái bàn, xong banh háng ngồi xuống ghế, kê hai cánh tay lên thành ghế. Một kiểu ngồi đầy chất chợ búa và thô thiển, tỏ ý chả có lịch sự gì so với cách ăn nói nhã nhặn trước mặt đám này, chưa kể cách ngồi như kiểu sếp người ta. Có hình minh họa ở dưới.

Còn cụm ‘lâu đài được xây trên cát’ là một cụm từ ám chỉ ‘thành quả rất nỗ lực để đạt được lại dựa trên một nền tảng thiếu ổn định có thể sụp đổ bất cứ lúc nào’)

Lão Frost hơi động đậy một tý. Maylis vẫn ngồi yên, cơ thể căng cứng như lò xo bị nén xuống mặc dù cô ta ngồi đang ở tư thế thoải mái. Gã Umburter nhìn xuống hai bàn tay hắn, mặt tái mét.

“Chưa hết,” tôi nói nhẹ nhàng hơn, “Gã Chúa tể Tối cao này không đập vỡ lớp khiên chắn quanh mạn tây vùng Sehz-Clar hay xé xác cô Seris ra, và mỗi ngày trôi qua một thành phố khác ở Dicathen rơi vào thất thủ do bị người dân lục địa đó lấy lại. Sự kiểm soát của hắn ta đang trượt dốc rồi.”

Tôi tập trung nhìn chằm chằm vào cái gã nhà Seabrook và những người khác cũng nhìn theo. Gã đàn ông có gương mặt màu mận chín này nhướng cằm với tự hào. “Ngài đã hỏi về người đàn ông có đôi mắt vàng,” tôi nói. “Không, anh ta không lén lút quanh vùng Alacrya này để cắt cổ tên Chúa tể nào hết. Bởi vì chính anh ta là người đã một tay chiếm lại cả lục địa Dicathen, cũng như chính anh ta đã đốt trụi khu trại quân sự ở phía bắc khu vực Victorious.”

Gã Exeter khẽ huýt sáo. “Vậy đó là sự thật à? Ascender Grey là người Dicathen ư?”

Tôi gật đầu. “Anh ấy đến lục địa của chúng ta để áp chế (master) các Khu Tàn Tích. Và anh đã thành công.”

Maylis bật ra một tiếng cười chế giễu kinh ngạc. “Nhưng thậm chí điều đó nghĩa là gì hả Caera? Để áp chế các Khu Tàn Tích là sao?”

“Dễ hiểu thôi." Môi tôi cong lên thành một nụ cười thờ ơ. “Để áp chế các Khu Tàn Tích có nghĩa là chế ngự được aether.”

Đây là một trong những phần khó nhất. Cô Seris muốn lũ người này coi anh Grey như một loại anh hùng trong truyền thuyết, gần với thần thoại hơn con người. Mặc dù vậy, ngay cả khi tôi đã thấy mọi thứ anh ấy làm, thật khó để tôi có nghĩ về anh theo hướng đấy.

“Trong tất cả những lần bước vào (ascend) Khu Tàn Tích của mình, cô đã bao giờ gặp ai đó có thể điều hướng để dịch chuyển đến bất cứ nơi nào họ muốn trong Khu Tàn Tích chưa?” Tôi hỏi, vẫn tập trung vào Maylis.

“Điều đó là bất khả thi,” cô ta nói ngay lập tức.

“Hoặc là, Đại lãnh chúa Frost, ngài đã bao giờ thấy một ascender tự nhiên nhận được một ấn mới mà không cần thông qua lễ ban ấn chưa?”

“Chưa,” lão nói chậm rãi, lời lẽ tuôn ra từ từ trong miệng như thể đang cân nhắc hàm ý của nó.

“Tôi đã thấy hết rồi,” tôi nói đơn giản, lời lẽ nhẹ tênh như bông. “Bởi vì tôi đã cùng đi xuống Khu Tàn Tích với anh Grey và vượt qua nhiều khu vực trong đấy rồi xem anh ta làm những điều này, và còn nhiều thứ khác nữa.”

(Nguyên văn: “the statement devoid of gravitas”. Ý câu này là hai điều Caera hỏi ở trên là điều vô cùng bất ngờ và nghiêm trọng với đám người Alacrya, vốn chưa từng thấy thì đối với em ấy là chuyện thường ngày, nên cố tình nói với cái vẻ như nó quá bình thường để tôn vinh sự thần thánh của Grey lên)

Ánh mắt của gã quản họ Geoffrey nhìn rất xa xăm, nhưng đối diện với ông ta ở phía bên kia bàn, gã Wolfrum đang chăm chú nhìn tôi. “Vậy thì chuyện mà người bạn của tôi ở pháo đài Taegrin Caelum đã nói với tôi—”

“Ý ngài là chuyện đám Wraith?” Tôi hỏi, và mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía hắn. Gã ta lo lắng co rúm người lại. “Hãy nói cho họ biết chuyện gì đã xảy ra đi,” tôi thúc giục.

Ánh mắt hắn ta đảo khắp bàn khi hít vào một hơi thật sâu, rõ là đang tự gồng bản thân cứng lại vì bất cứ chuyện gì hắn sắp phải nói. “Anh ấy đã nói, chà, có tin đồn rằng… một nhóm chiến đấu từ tổ đội Wraith”—hắn phải thì thầm từ “đội Wraith”—“đã bị tiêu diệt ở lục địa khác.”

“Nhưng đội Wraith chỉ là một câu chuyện cổ tích, một—” Gã nhà Umburter bắt đầu nói, nhưng gã Wolfrum đã cắt lời hắn bằng cái lắc đầu dữ dội.

“Không phải đâu! Gia tộc Redwater, họ”—hắn ta nuốt nước bọt vào họng với một chút khó khăn—“muốn tôi là một phần của đội này, một khi huyết thống của tôi bộc lộ ra. Chỉ…” Lời hắn ta đang nói tắt giọng dần.

Gã Seabrook hắng giọng, theo kiểu hơi lo lắng, tôi nghĩ thế. “Cậu đang gợi ý rằng cái gã Ascender Grey này đã giết họ ư?”

“Đó là sự thật,” Lão Ainsworth trả lời thay cho gã Wolfrum. “Tôi có những người của mình trong trận chiến đó, một trong số họ là cháu ruột của tôi. Thằng bé mô tả cách các Scythe đang nghiền nát các tướng lĩnh của kẻ thù khi ma thuật khủng khiếp được tung ra từ đằng xa, nhưng rồi một người đàn ông với đôi mắt vàng xuất hiện và ném xuống một chiếc sừng Vritra cho tất cả mọi người nhìn thấy, và rồi hai bà Scythe Melzri và Viessa rút lui với một cái gật đầu.”

“Họ cúi đầu trước người đàn ông đó hả?” Người quản họ tên Geoffrey nói chen vào, cảm thấy có vẻ khiếp đảm.

(Nguyên văn: câu trên là “and Scythes Melzri and Viessa retreated with a bow.”; còn câu này là “They bowed to the man?” Mình nghĩ đây là sự cố tình viết lập lờ cụm từ ‘a bow’ là danh từ với ‘bowed’ là động từ. Cả hai đều có hai nghĩa là ‘cúi đầu’ hoặc ‘gật đầu’, và hai nghĩa này khác nhau. Cụ thể trong chương (hoặc bản patreon) thì hai scythe này nhìn nhau gật đầu tỏ ý đồng thuận quan điểm sẽ rút lui. Nhưng vì một từ nhiều nghĩa, nên chỗ này lão Geoffrey hiểu thành là hai scythe cúi đầu trước Grey rồi rút lui. Ta cũng thấy hai scythe có thể sợ Grey nhưng chẳng có lý do gì phải cúi đầu trước kẻ thù cả. Có lẽ tác giả cố tình làm trùng nghĩa chỗ này để tạo ra chính sự nhầm lẫn trong suy nghĩ của toàn bộ lũ thượng huyết tộc, tính cả lão Ainsworth nghe cháu mình kể lại có thể cũng nhầm lẫn luôn. Vừa tạo điểm may mắn cho Caera khi đang cố thuyết phục đám này và tìm cách gia tăng hình tượng của Grey, điển hình ngay mấy dòng dưới đây, Caera cố tình để tụi này bàn tán xôn xao, tụi nó bàn càng lâu thì càng hoang mang trước hình tượng của Grey)

Lại lần nữa, cả bàn bùng lên nhiều tiếng lẩm bẩm và trò chuyện qua lại với nhau, nhưng lần này tôi để khoảnh thời gian đó kéo dài hơn.

“Tất cả các ngài đã tự mình chứng kiến ​​những gì anh ấy đã làm ở sự kiện Victoriad,” tôi nói khi tiếng ồn đã lắng xuống. “Những đạo quân đơn lẻ không thể chiến đấu với các asura. Nhưng với một con người như anh Grey dẫn dắt họ thì…”

Tôi để những lời lẽ nán lại. Tôi đang hóng ai đó ngắt ngang để tranh luận, tuyên bố rằng một kẻ ngoại quốc không thể lãnh đạo người Alacrya, hoặc rằng chúng ta chỉ đang thay thế một vị thần độc tài bằng một vị thần độc tài khác, nhưng, tôi ngạc nhiên là, tôi không nhận được kiểu phản ứng nào như thế.

“Tám nhóm chiến đấu đã quay về với huyết tộc tôi trước khi mấy thiết bị dịch chuyển liên lục địa bị vô hiệu hóa,” Lãnh chúa Exeter nói, giọng trầm của hắn giờ trở nên nhẹ nhàng. “Tất cả bọn họ đều kể chung một câu chuyện: gã ascender Grey này đã nhiều lần cho họ một lựa chọn, là trở về nhà còn hơn chết.”

“Với tôi mà nói chúng giống như tám nhóm hèn nhát vậy,” gã Seabrook cáu kỉnh nói.

Vẻ cau có trên mặt gã Exeter đối với cái gã nhà Seabrook trở nên dữ tợn, gần như sắp hóa thành hành động.

“Tôi đã nghe điều tương tự từ một số người khác,” Lão nhà Ainsworth chỉ ra, lão cũng tập trung vào tên Seabrook. “Rõ ràng kẻ thù của chúng ta tử tế với mạng sống người phe ta hơn những kẻ lãnh đạo chúng ta.”

Tôi đứng dậy đột ngột, bước vòng qua ghế và tiến gần đến chỗ gã Exeter hơn, những đầu ngón tay trên bàn tay phải lướt dọc theo mép bàn. “Các ngài có biết đám asura dùng từ nào để mô tả chủng loài chúng ta không?” Không ai trả lời cả. “Lũ hạ đẳng (lessers).”

Lão Frost trầm ngâm quan sát tôi. Cạnh lão, lão nhà Ainsworth nghiền ngẫm nhìn mặt bàn đầy sẹo như thể nó là tấm chiến đồ. Đôi mắt vốn né tránh ánh nhìn của tên Wolfrum giờ lại dõi theo tôi, không còn đảo qua đảo lại giữa mấy tên đại lãnh chúa khác nữa. Gã Seabrook im lặng và suy ngẫm, tên con thứ nhà Umburter mất tập trung, có vẻ không bắt được mạch câu chuyện, gã Exeter thì suy nghĩ ở đâu đó ở giữa những điều đấy. Gã Geoffrey đang đứng dựa người vào cạnh bàn, một ngón tay chạm nhẹ môi khi suy ngẫm về những điều vừa được nói. Nhỏ Maylis mang trên mặt cảm xúc cam chịu nhưng cố không lộ ra của một người vốn thường xuyên đối mặt với tử thần và chiến đấu vì mọi thứ cô ta từng có.

“Đối với lũ Vritra, không có sự khác biệt giữa pháp sư thượng huyết tộc mạnh mẽ nhất với những kẻ không ấn không huyết thống thấp kém nhất. Đối với chúng, tất cả các người đều là đám hạ đẳng, và bất kỳ ai trong số chúng ta sẽ mãi mãi như vậy. Và ở vị trí là lũ hạ đẳng, mạng sống của chúng ta chỉ có giá trị ngang những gì chúng có thể dùng để đổi chác, hay để hiến tế. Một món hàng hóa tầm thường.”

Bây giờ thì đến tên Umburter cũng gật đầu. Hai má gã Seabrook đỏ phừng phừng như rượu vang.

“Cô Seris không bằng lòng với việc để những con người thấp kém trong thế giới này thành chất đốt để duy trì cuộc chiến tranh của lũ asura. Tôi không bằng lòng, anh Grey cũng không, và bởi vậy nên cùng nhau, chúng tôi sẽ chiến đấu để đảm bảo các người không bị ngược đãi như vậy.” Hai tay lão Frost co chặt lại thành nắm đấm. Một nụ cười như say rượu trông khờ khạo vẽ thành một vệt dài trên khuôn mặt tên Wolfrum. “Thậm chí cả các ngài đây cũng không muốn như vậy,” tôi kết thúc một cách ảm đạm.

Những lời lẽ lắng đọng trên bàn như một trận tuyết rơi dày đặc, phủ trùm lên mọi người và át đi mọi tiếng ồn khác xung quanh. Ngay cả phòng bar của quán trọ dường như cũng trở thành im ắng trong giây lát.

Và trong sự im lặng ấy, tôi cảm nhận được chúng. Vài dấu hiệu mana mạnh mẽ đang tiến lại gần từ dưới phố.

Không ai khác ở đây cảm nhận được chúng, nhưng Maylis chắc hẳn đã nhận ra sự căng thẳng đột ngột trong thế đứng của tôi, bởi vì cô ta đứng lên và chạm một tay lên con dao găm của mình. “Có chuyện gì?”

“Bọn pháp sư—những kẻ rất mạnh.” Tôi lướt qua gương mặt của mọi người, tất cả họ đều đang chờ và căng cứng người như mấy con bọ nhảy (silk hopper) sẵn sàng búng thân bay đi khi tôi ra lệnh. Tôi không cần họ bộc lộ thêm bất kỳ dấu hiệu nào thể hiện sự ủng hộ nữa; khoảnh khắc cảm nhận được thân phận đầy tớ ban nãy của những người đàn ông quyết đoán và có tính chỉ huy khác này đã tiết lộ nhận thức về quyền lực ở họ thay đổi như thế nào trong căn phòng này.

“Đi đi,” tôi nói, và tất cả bọn họ bắt đầu di chuyển.

Gã Lãnh chúa trẻ tuổi nhà Umburter khoác một cái áo choàng qua vai, và đột nhiên tôi cảm thấy suy nghĩ của mình nhanh chóng nhấy nháy và không thể tập trung vào hắn nữa. Mặc dù đơn giản, nhưng chiếc áo choàng được yểm phép này làm cho sự chú ý của tôi lướt khỏi hắn ta.

Những người khác đều có những trang bị phép thuật bổ trợ tương tự để giữ an toàn và không bị để ý, nhưng tôi không chờ nghiên cứu từng cái một đâu.

Kéo cánh cửa mở ra chầm chậm, tôi ngó trộm ra hành lang trước khi rời khỏi phòng. Chẳng thấy ai cả, vậy nên tôi vội vã đi về phía cửa sau. Đi được nửa đường, một cánh tay lướt qua tôi. Ngạc nhiên, tôi định lùi ra xa, rồi muộn màng nhận ra đó là nhỏ Maylis.

Cô ả cười toe toét, chộp lấy một chai rượu màu đỏ đậm trên hàng kệ kê sát vào tường, dùng răng lôi nút bần ra và nốc ừng ực một ngụm. Khi mặt tôi lộ vẻ ngạc nhiên hơn nữa, cô ta cười khùng khục và nói, “Gì chứ? Ta chỉ là cặp bạn cũ gặp nhau để uống rượu trong khoảng thời gian éo le thế này thôi. Nào uống đi.”

Rồi cô ấy cố đổ rượu vào mồm tôi, cười nắc nẻ suốt một lúc.

Sau khi hồi phục do khi suýt chết ngạt trong rượu, chúng tôi bước ra cửa, không hề lặng lẽ, mà nhỏ Maylis đá bay cửa và cười đùa hớn hở trong màn đêm mát mẻ. Trời vẫn còn mùi mưa, mặc dù cơn bão đã ập xuống lúc tôi còn ở trong nhà trọ.

(Người dịch: nhỏ Maylis giả vờ là hai đứa này gặp nhau chỉ để uống rượu, cho nên đổ rượu vào mồm Caera, và giờ khi bước ra khỏi quán rượu, người hai đứa này nồng nặc mùi rượu để ngụy trang cho lý do gặp mặt)

Tay trong tay, chúng tôi rời khỏi con hẻm và Maylis hướng dẫn tôi đi sang phải.

“Cô biết không, Caera, tôi khá ngạc nhiên khi huyết thống của cô chưa bao giờ bộc lộ ra,” cô ấy nói, thở ra cả hơi sương. “Trong số những đứa nhóc mang dòng máu Vritra mà tôi đã diễu hành trước mặt chúng, cô dường như là tâm điểm của lũ đó.”

(Nguyên văn:

“Of the Vritra-blooded kids I was paraded around in front of”. Tác giả dùng cụm từ ‘parade around in front of’ với ý không rõ ràng, vì nội dung truyện chưa tiết lộ nên mình chỉ có thể tạm đoán là ‘đứa con lai nào mà huyết thống Vritra bộc lộ ra thì sẽ được đem ra diễu hành trước mặt những lũ còn lại như cách khoe khoang thành tích. Có lẽ cũng giống như vụ Nico lên làm Scythe được đem diễu hành trước mặt dân chúng và đám chúa tể vậy.

“you seemed the most focused.” Cụm từ ‘focus’ ở đây hiểu thành hai nghĩa, nghĩa một như trên mình dịch, còn nghĩa hai là “cô là kẻ tập trung nhất trong số đó” và nghĩa này đoạn phía dưới sẽ dùng)

Tôi cảm thấy tội lỗi giằng xé trong nội tâm, nhưng điều này là sự thật mà cô Seris và tôi vẫn chưa sẵn sàng nói với bất cứ ai hết. “Tôi chắc chắn rằng bố mẹ nuôi của tôi cũng đồng ý điều này với cô. Mặc dù, ngạc nhiên và thất vọng có lẽ là những từ mô tả hoàn chỉnh hơn về suy nghĩ của họ.”

Đằng sau chúng tôi, tôi cảm thấy có những dấu hiệu mana dừng lại ở đâu đó xung quanh quán trọ. Tôi vẫn kìm nén mana của mình, và tôi có thể cảm nhận được rằng Maylis cũng đang đề phòng tương tự.

Maylis cười khúc khích và chuyền tôi chai rượu. Tôi nhấp một ngụm, rồi hỏi: “Cô đã bộc lộ huyết thống cách đây bao lâu rồi? Và tôi không nhớ đã từng nghe cái tên Thượng huyết tộc Tremblay trước đây.”

“Bốn năm,” cô ấy nói, kéo tôi sang một bên để chúng tôi không dẫm vào vũng nước lớn dưới đường khi đang đi lững thững. “Và tôi không ngạc nhiên. Sau khi dòng máu của tôi bộc lộ, tôi đã dành một khoảng thời gian—chính xác là ba năm sáu tháng—để luyện tập ở pháo đài Taegrin Caelum. Và bị khoảng bốn mươi thằng nghiên cứu gia khác nhau chọc ngoáy kiểm tra. Tuy nhiên, dù chúng đang tìm bất cứ cái gì, thì chắc hẳn tôi cũng không có nó. Khoảng sáu tháng trước, chúng tiễn tôi lên đường với một cái tên và tước hiệu mới—Matron Tremblay—và giờ tôi có đất đai, điền trang và người hầu và… à, thay đổi lớn đấy.”

“Nhưng cô vẫn tiếp tục đi vào Khu Tàn Tích,” tôi phán chắc, bởi dựa phản ứng trước đó thì ít nhiều gì cô ta cũng chẳng lạ lẫm với Khu Tàn Tích.

Nụ cười nhếch mép khi trả lời của cô ấy trở thành vẻ nhăn nhó. “Dĩ con mẹ nó nhiên rồi, giống như nhiều người cảm thấy buồn phiền sầu não. Tôi sẽ không kê cao đít ngồi một chỗ suốt quãng đời còn lại của mình đâu.” Cô ả đột nhiên ngó tôi chằm chặp, và một bên lông mày hơi xếch lên. “Vậy, cái anh chàng Grey này. Hai người đã có nhiều thời gian ở riêng với nhau, hở?” Đôi lông mày cô ả nháy lên cụp xuống, và bằng một lý do kỳ lạ nào đó khiến tôi liên tưởng đến Regis. “Tôi chỉ xem qua mấy chương trình phát sóng thôi, nhưng anh ấy có vẻ khá hấp d…”

Tôi nhận thấy mình đỏ bừng cả mặt khi nhận ra điều cô ta đang nói bóng gió. “Maylis! Cô thực sự còn nhiều chuyện để học khi trở thành một đại lãnh chúa của thượng…”

Nhưng sự ngượng ngùng của tôi chỉ khiến cô ả cười ngặt nghẽo hơn.

Chúng tôi cứ tiếp tục như vậy khi băng qua một vài khu nhà, rồi Maylis thả tôi ra. “Dù đám pháp sư đó là ai, họ dường như không theo dõi chúng ta. Đáng tiếc thật, tôi không phiền đánh một trận đâu.” Cô ấy cười toe toét, xô đẩy tôi kiểu đùa giỡn khi tôi bắt đầu cự lại. “Dù sao thì tôi sắp rẽ hướng này. Tôi thật hy vọng ta sẽ sớm gặp lại nhau, Caera. Dường như mọi thứ sắp trở nên thú vị hơn ở cái xứ Alacrya này.”

“Tôi hy vọng chúng ta có thể trông cậy vào sự hỗ trợ từ Thượng huyết tộc Tremblay,” tôi nói một cách trang trọng, rồi đế thêm một đoạn nữa cho câu có tính đối thoại hơn, “bởi vì ‘thú vị’ không phải là từ tôi muốn chọn để nói về khoảng thời gian sắp tới, và tôi sẽ cảm thấy tốt hơn khi đối mặt với chúng khi có cô ở cùng phe chúng tôi.”

Cô ấy cười vang và vô tư. “Lúc nào cũng rất tập trung, như tôi vừa nói. Tạm biệt, Caera.” Cô ta quay lưng và bắt đầu bước đi với những sải chân dài hơn có chủ đích. “Ồ, và dĩ nhiên là, đừng chết đấy,” cô ấy nói lúc liếc ngang bả vai trước khi chìm vào chỗ tối trên con phố không ánh đèn.

(Nguyên văn: “Always so focused, as I said.” Chữ ‘focused’ ở đây dùng cùng nghĩa thứ hai như mình đã giải thích ở trên, ý nói “Caera luôn tập trung vào điều gì đó chứ không lỡ đãng mục tiêu”)

Sự vui vẻ trôi tuột mất, những lời lẽ cô ta nói như gợi lên nỗi phiền muộn đầy thận trọng đặt vào đúng chỗ trong lòng tôi. “Tôi chỉ có thể cố hết sức thôi,” tôi tự nói với bản thân, rồi quay lại và vội vã hướng về phía thiết bị tạo cổng dịch chuyển tạm thời (tempus warp) đặt sau con hẻm mà tôi sẽ dùng để quay lại khu rìa phía đông vùng Sehz-Clar, bên ngoài những lớp khiên phép được cấp năng lượng bởi thằng asura kia.

Tôi nhận ra có bóng người bám theo gần như ngay lập tức, mặc dù tôi không chắc liệu họ đã ở đó từ trước và tôi không nhận ra, hay họ chỉ vừa mới xuất hiện. Tôi không tăng tốc, nhưng vẫn tiếp tục bước đi bình thản dù tâm trí mình quay cuồng. Dấu hiệu mana của họ không tỏ ra áp đảo, nhưng cũng có thể là một pháp sư mạnh hơn đang che giấu một phần sự hiện diện của họ, hoặc cũng có thể chỉ là một tên trinh sát hay gián điệp được cử đến để theo dõi tôi sẽ đến đâu hoặc đang chỉ điểm cho bọn pháp sư khác mạnh hơn chạy lại chỗ tôi.

Sau vài phút đi, tôi rẽ nhanh khỏi điểm đến dự định của mình, thu hút kẻ đuổi theo vào một khu dân cư đông đúc làm hạn chế tầm nhìn.

Sau lần thứ ba rẽ nhanh vào khúc đường khác, tôi dừng lại và rút kiếm ra. Khi bóng người bước vào góc quẹo, họ đã thấy lưỡi kiếm bằng thép màu đỏ tươi kề ngay cổ họng mình. Tôi soi chằm chằm vào chỗ tối dưới cái mũ trùm đầu của họ, nhưng chỗ đó quá tối và sâu hoắm, che đi các nét trên mặt họ.

“Không được động đậy,” tôi ra lệnh. “Xưng tên và mục đích các người ngay tức khắc.”

Họ bất động, đưa tay giang ra hai bên hông. Từ dưới mũ trùm, một giọng khàn khàn thô ráp cất lên, “Thế tôi động đậy cái mồm thôi được không, hay—giả sử không được phép thì tôi cũng lỡ rồi, nhưng vì cô không xiên tôi, tôi đoán là có thể nhép mồm.”

Tôi cảm thấy nét mặt mình nheo lên thành cái cau mày bối rối khi người đàn ông này cứ nói luyên thuyên. “Ông là ai, và tại sao ông lại theo dõi tôi?”

Chầm chậm, hai tay đưa lên hai bên cái mũ trùm đầu, kéo nó xuống để lộ ra một lão già, lùn mập, với mái tóc màu xám dài lưng chừng và bộ râu bù xù.

“Tiểu thư Caera,” dáng người quen thuộc lên tiếng, tròng mắt ông ấy đảo xuống tận dưới hốc mắt khi cố nhìn vào mũi kiếm của tôi.

“Alaric,” tôi trả lời, cố móc cái tên này ra khỏi màn sương mù mờ trong trí óc mình khi chỉ nhớ mang máng được phần nào. “Nhờ vinh dự nào mà tôi được ông chú giả mạo của anh Grey ghé thăm bất ngờ vào đêm đẹp trời thế này?”

“Tôi khó mà chịu đựng nổi khi nhìn cô ngồi chơi trò tay đập tay với đám quý tộc khó tính chải chuốt quá mức ấy.” Ông ta cười khúc khích, và đôi mắt lóng lánh trở nên tối sầm. “Sẽ không đủ đâu, gái à. Rõ là không, nếu cô đang muốn khuấy động một cuộc nổi loạn, cô cần phải nhìn xuống chỗ thấp hơn nhiều.”

(Nguyên văn: “see you playing patty cake with those prissy, over-pruned nobles.” Cụm ‘playing patty cake with’ là ám chỉ trò chơi đập tay ‘pat-a-cake’. Có link youtube minh họa ở cuối bài)

Tôi rút vũ khí của mình khỏi cổ ông ấy nhưng không cất nó đi. Đầu óc tôi quay cuồng với nhiều câu hỏi, nhưng tôi cố nén lại, vẫn dè dặt. Tôi không biết rõ về người đàn ông này, và chỉ có mối liên hệ mong manh giữa ông ta với anh Grey để đảm bảo.

“Nói tiếp đi.”

Lão Alaric cười toe toét khoe hàm răng ố vàng. “Cô cần nhiều bạn bè ở những chỗ thấp kém, và không ai có nhiều bạn hơn tôi, cũng không ai ở địa vị thấp hơn tôi.” Ông ta hơi lưỡng lự, và rồi có một tia lấp lánh trong mắt. “Và dịch vụ từ tôi chỉ làm cô tốn một chai rượu mật ong cho buổi đi dạo thôi đấy.”

(Nguyên văn: “You need friends in low places, and nobody’s got more friends, and none lower, than me.” Cụm từ ‘low places’ và ‘lower than me’ của Alaric ở đây hiểu theo cả hai nghĩa. Vừa là ‘vị trí sống tồi tàn’ vừa là ‘địa vị, tầng lớp thấp hèn’. Alaric muốn bao hàm cả hai ý: “tôi vừa sống ở chỗ tồi tàn vừa là tầng lớp thấp hèn nhất xã hội Alacrya”)

Tác giả: TurtleMe

Người dịch: Nightmoonlight

Truyện Chữ Hay