Chu Chí Nhẫn cả giận nói: “Thằng ranh Thiệu Nghĩa chỉ với mấy ngàn kỵ binh mà dám cuồng vọng đến thế, dám nhục mạ hoàng sứ cùng quân uy của ta, ta thấy hắn ta đúng là chán sống rồi!”
Thường Ngọc Thanh lại cười lạnh một tiếng, nói: “Sợ không phải là Đường Thiệu Nghĩa cuồng vọng, kỵ binh trong tay anh ta cùng lắm cũng chỉ khoảng hai ngàn, dám làm nên loại khiêu khích này, đương nhiên là phía sau còn có người chỉ đạo. Thiết nghĩ lần này hắn ta cướp đoạt xong hẳn là sẽ không quay trở lại thảo nguyên Tây Hồ, mà là lên núi Ô Lan.”
Trần Khởi nhìn Thường Ngọc Thanh, nói: “Không sai, Đường Thiệu Nghĩa sau khi cướp bóc tiền tài cẩm bạch liền quay trở lại núi Ô Lan.”
Chu Chí Nhẫn đấm vào án thư: “Đường đường là quân chính quy Nam Hạ lại làm ra những hành vi của sơn phỉ, thật quá vô sỉ!”
Thường Ngọc Thanh thấp giọng cười lạnh, cũng không nói gì.
Sắc mặt Trần Khởi so với lúc vừa nhận được tin tức đã dịu đi rất nhiều, anh ta trầm ngâm một chút, trầm giọng nói: “Bất luận lần này Đường Thiệu Nghĩa là cố ý khiêu khích hay là hành vi của sơn phỉ, thì cũng đã giáng một cái tát vang dội lên mặt chúng ta. Đội quân vận tải vật dụng khao quân của chúng ta bị cướp, thể diện của đại quân chinh Nam chúng ta đã không còn sót lại chút gì, Hoàng Thượng chắc cũng đang rất thịnh nộ.” Anh ta ngừng lại, ánh mắt thâm trầm nhìn Chu Chí Nhẫn cùng Thường Ngọc Thanh, chậm rãi nói: “Thiên tử nổi giận, xác chết trôi trăm vạn dặm, đổ máu ngàn dặm. Việc này tất nhiên khiến cho triều đình vô cùng giận dữ, cho nên lần này bất luận Thương Dịch Chi có giăng bẫy phía sau chờ chúng ta hay không, chúng ta cũng phải chui vào.”
Trong phòng, ba người đều trầm mặc, bọn họ đều là những bậc chỉ huy có hiểu biết thâm sâu về quân sự, là đương kim danh tướng hiện thời chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. Trần Khởi giỏi về mưu lược, suy nghĩ nghiêm mật, Chu Chí Nhẫn thì lão thành, trầm ổn, thận trọng, kinh nghiệm phong phú, mà Thường Ngọc Thanh lại nhanh trí, quả cảm, thông tuệ khó có người sánh bằng, ba người như vậy, sao lại không thể nhìn ra chút thủ đoạn của quân Giang Bắc cơ chứ. Nhưng Thương Dịch Chi âm hiểm ở chỗ, mặc dù mọi người đều biết được đó là một cái bẫy, nhưng cũng không thể không chui vào. Mấu chốt chính là bởi vì mọi người đều quá mức cho khinh thị Thương Dịch Chi, khinh thị vị công tử ở kinh thành Nam Hạ nổi danh ăn chơi trác táng, là một tướng quân bại hoại trong thành Thanh Châu. Tuy rằng anh ta đưa quân vào dãy núi Ô Lan khiến cho Trần Khởi phải lưu tâm, nhưng ai cũng không thể ngờ được rằng tiểu tử này lại có thể trong lúc bản thân mình còn chưa yên ổn, lại cả gan dùng hai ngàn kỵ binh đến vuốt râu hổ của hơn mười vạn đại quân Bắc Mạc.
Chuyện tới nước này, bọn Trần Khởi đã đánh mất tiên cơ. Nếu không đi đánh, thể diện mọi người để ở đâu? Thể diện đại quân Bắc Mạc để ở đâu? Thể diện triều đình Bắc Mạc để ở đâu? Mặt rồng của tiểu hoàng đế Bắc Mạc còn non nớt như vậy sao chịu được cái tát bỏng rát này. Trong triều đình Bắc Mạc chắc chắn sẽ bùng lên một trận đại hỏa, sợ là không có cách nào đợi được đến sang năm, xuân về hoa nở nữa, mà rất có khả năng là sẽ lệnh cho Trần Khởi điều động quân ngay tức khắc tiến vào dãy núi Ô Lan “diệt phỉ”, mà hiện tại đúng vào lúc trời đông giá rét, lúc này vào núi mà diệt phỉ thì hậu quả như thế nào, dùng đầu gối cũng có thể đoán ra được.
Thường Ngọc Thanh trầm mặc một lát, đột nhiên nhẹ giọng cười, nói với Trần Khởi: “Đại soái, ngài cho ta năm vạn quân, bộ binh, không cần kỵ binh.”
Lần này đại quân Bắc Mạc chinh nam có gần mười lăm vạn chiến binh, Thường Ngọc Thanh mở miệng muốn xin năm vạn, như vậy quân số còn lại trấn giữ ở thành Dự Châu cùng quân số chia ra để tấn công Thái Hưng cũng chỉ còn lại mười vạn, Dự Châu thì không sao, nhưng Thái Hưng dù sao cũng là tòa thành lớn nhất vùng Giang Bắc của Nam Hạ, trong thành, quân chính quy cũng hơn ba vạn người, nếu dùng chưa tới mười vạn bộ binh, trong thời gian ngắn muốn hạ được thành Thái Hưng cũng không phải chuyện đơn giản.
Trần Khởi không nói lời nào, ngẩng đầu liếc mắt nhìn Chu Chí Nhẫn.
Chu Chí Nhẫn sắc mặt kiên nghị, lạnh nhạt nói: “Chu mỗ chỉ cần tám vạn binh có thể hạ thành Thái Hưng, đại soái đừng lo.”
Trần Khởi lại nhìn về phía Thường Ngọc Thanh: “Tốt lắm, ta cho ngươi năm vạn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, Chu lão tướng quân đánh hạ Thái Hưng, thỉnh Thường tướng quân tiêu diệt phỉ quân Giang Bắc!”
Thường Ngọc Thanh khóe miệng mỉm cười, thoải mái nói: “Tuân lệnh đại soái.”
Ngay lập tức, Chu Chí Nhẫn tự mình đi trước, xuống an bài quân đội, Thường Ngọc Thanh cũng định đi, lại bị Trần Khởi gọi lại, Thường Ngọc Thanh quay đầu nhướn mày nhìn anh ta, dò hỏi: “Đại soái còn có gì phân phó?”
Trần Khởi đưa ánh mắt phức tạp nhìn Thường Ngọc Thanh, trầm mặc một lát, rốt cục thấp giọng nói: “A Mạch là bạn cũ của ta trước đây, mong rằng Thường tướng quân hạ thủ lưu tình.”
Thường Ngọc Thanh giật mình, lập tức hiểu được ý của Trần Khởi, thì ra nha đầu kia tên là A Mạch, chỉ không thể tưởng tượng được Trần Khởi lại dám công khai thừa nhận là quen biết nàng, anh ta cười khẽ, đáp: “Đại soái nói quá lời, nếu đã là cố nhân của đại soái, Thường mỗ tất nhiên không dám làm khó A Mạch cô nương rồi.”
Không nói thả, cũng không nói không thả, câu trả lời của Thường Ngọc Thanh khiến lời của Trần Khởi chẳng khác nào trở thành vô ích. Nhưng mặc dù vậy, Trần Khởi cũng không cách nào nói thêm cái gì khác được nữa. Trần Khởi thản nhiên nhếch khóe miệng, hướng về phía Thường Ngọc Thanh chắp tay, nói: “Đa tạ.”
Thường Ngọc Thanh cười cười, cũng hướng về phía Trần Khởi chắp tay, xoay người rời đi. Vừa ra khỏi thành phủ, thị vệ chờ ở bên ngoài liền tiến đến, Thường Ngọc Thanh thấy sắc mặt anh ta trầm trọng, trong mắt ánh lên tia bi phẫn, đoán đã xảy ra chuyện, liền nhận lấy dây cương, rồi tùy ý hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”
Thị vệ thấp giọng đáp: “Nữ nhân kia chạy thoát rồi, cả hai huynh đệ đều bị hại.”
Thường Ngọc Thanh đang xoay người lên ngựa, nghe vậy động tác liền bị kiềm hãm lại, thân thể lập tức tạm dừng ở giữa không trung một lát rồi mới ngồi vào yên, khi ngẩng đầu lên thì ánh mắt đã trở nên lạnh lùng, lạnh giọng hỏi: “Người đâu?”
“Thi thể hai huynh đệ đã đưa về phủ, quân phục trên người đều bị cởi hết, theo hồi báo từ cổng thành, có hai người giả có lệnh của nguyên soái, đã cưỡi ngựa ra khỏi thành.” Thị vệ đáp, thấy vẻ mặt lạnh băng của Thường Ngọc Thanh, còn cẩn thận nói thêm: “Đã phái người đuổi theo.”
“Đuổi không kịp?” Thường Ngọc Thanh nói, anh ta giương mắt nhìn về phía tây, nghiến răng cúi đầu thì thầm: “A Mạch, A Mạch, ngươi giỏi lắm, A Mạch!” Chỉ nghe thấy “Rắc!” một tiếng, roi ngựa trong tay anh ta đã bị bẻ gãy thành hai đoạn.
A Mạch cùng Trương Nhị Đản ra khỏi thành Dự Châu chạy về hướng tây mấy chục dặm, sau đó lại đột nhiên chuyển sang hướng nam. Tới gần chạng vạng, những bông tuyết trên bầu trời ngày càng lớn bung ra, bay bay trong gió như lông ngỗng, xóa tất cả mọi dấu vết trên đường. Hơn nữa sắc trời bắt đầu tối, kỵ binh Dự Châu đuổi theo phía sau hoàn toàn không phát hiện ra tung tích của A Mạch.
A Mạch cùng Trương Nhị Đản đến một thôn trang nhỏ liền thay trang phục thị vệ Bắc Mạc ra, sau đó tiếp tục lên đường, lúc thì đi theo hướng tây, lúc lại chuyển sang hướng nam, sau mấy ngày thì tiến vào địa phận phía nam của dãy núi Ô Lan. Vừa tiến vào núi, cưỡi ngựa rất khó đi, A Mạch liền dùng hai con ngựa đổi lấy chút đồ ăn cho mấy nhà ở ven núi, rồi lại hỏi đường đi đến thành Hán Bảo, rồi men theo đường núi trên dãy Ô Lan đi về phía Bắc thành Hán Bảo.
Trương Nhị Đản không sao hiểu được ý đồ của A Mạch, nhưng anh ta vốn kính nể A Mạch, chỉ nghĩ nàng đi đường vòng như vậy là để tránh truy binh của Bắc Mạc, cho nên ngay cả hỏi cũng không hỏi, chỉ lẳng lặng đi theo. Hai người đi đường núi mấy ngày, đợi đến khi đến bìa rừng cách phía Bắc thành Hán Bảo mấy chục dặm, thì đã là ngày cuối cùng của năm thứ hai theo lịch Thịnh Nguyên Nam Hạ, chính là ngày trừ tịch().
Trải qua mấy ngày đêm bôn ba vất vả, hai người đều đã ở trong tình trạng kiệt sức, mệt đến nỗi không còn ra bộ dáng gì nữa, Trương Nhị Đản đặt mông ngồi dưới đất, thở hổn hển hỏi A Mạch nói: “Ngũ trưởng, khi nào thì chúng ta sẽ về được đến quân doanh?”
A Mạch liếc mắt nhìn phong cảnh núi rừng có chút quen thuộc phía xa xa, nói: “Nhanh thôi.”
Trương Nhị Đản ngây ngốc cười cười, nói: “Chúng ta đi lòng vòng như vậy, thát tử có mệt đến chết cũng không đuổi kịp chúng ta.”
A Mạch gật gật đầu, nhìn Trương Nhị Đản, đột nhiên đứng lên nói: “Ngươi cứ ở nơi này nghỉ một lát, ta đi phía trước xem xét một chút.”
Trương Nhị Đản nghe vậy, nghĩ nàng muốn đi lên phía trước dò đường, vội vàng nói: “Ngũ trưởng, để ta đi cho.”
“Không cần,” A Mạch cười cười, cầm bao quần áo và túi bánh bao ném cho Trương Nhị Đản, cười nói:“Ngươi ăn trước đi, ta đi một lát rồi về.” Thấy Trương Nhị Đản vẫn muốn bước qua, A Mạch ngừng lại, nhìn Trương Nhị Đản bất đắc dĩ nói: “Ta muốn làm một chút việc cá nhân.”
Trương Nhị Đản nghe vậy sửng sốt, trên mặt lập tức đỏ bừng, mặt đỏ tai hồng quay người lại, tựa hồ còn cảm thấy vẫn chưa được, liền đi lên phía trước vài bước, lúc này mới ngồi xuống đất.
A Mạch cười cười, không để ý Trương Nhị Đản nữa, xoay người luồn lách qua những tán cây, đi vòng vo một lúc đến dưới một gốc cây đại thụ. Vẫn gốc cây đại thụ ấy, chẳng qua mấy tháng trước cành lá vẫn còn xanh um tươi tốt, mà giờ chỉ còn lại một thân cây trụi lá. A Mạch nhìn cây đại thụ trước mặt, hô hấp có chút dồn dập, sau đó đi từng bước một đến dưới tàng cây, rồi chậm rãi quỳ xuống.
“Phụ thân, mẫu thân, cha mẹ có tốt không?” Nàng khẽ tựa trán vào thân cây đại thụ, thì thào tự nói: “A Mạch đến thăm cha mẹ, A Mạch vẫn còn sống, sống rất tốt……”
Nơi này chính là nơi mà phụ thân lần đầu tiên xuất hiện ở cái thế giới này, hơn ba mươi năm trước, vào một ngày nọ, chính tại nơi đây, cha nàng đột nhiên từ giữa không trung rơi xuống, mắc ở một chạc cây, sau đó rơi xuống đất. Tỉnh dậy sau cơn mê man, cha nàng đem một số đồ vật tùy thân chôn dưới gốc cây, sau đó từ nơi này đi ra khỏi khu rừng, bắt đầu một đoạn nhân sinh khác.
Cũng tại nơi này, phụ thân đã đem tất cả những thứ tượng trưng cho thân phận vang danh khắp thiên hạ của mình chôn dưới gốc cây, sau đó rũ bỏ áo giáp, cùng mẫu thân tương tri tương ái() quy ẩn núi rừng.
Gốc đại thụ này nàng đi tìm đã lâu, chỉ căn cứ vào vài lời miêu tả của cha mẹ lúc còn sống, nàng đã tìm kiếm trong dãy núi Ô Lan này suốt mấy năm, rốt cục đã tìm được. Sau đó lại chôn dấu di vật của cha mẹ ở nơi này.
Từng giọt, từng giọt nước mắt rơi xuống, tạo thành những lỗ nho nhỏ trên lớp tuyết xốp dày. Thân thể của nàng cuộn lại, ngày thường vốn rất kiên cường giờ lại thật yếu đuối, tay bám chặt lấy thân cây, vì dùng sức quá mà biến thành sắc trắng xanh.
Hết thảy đều không một tiếng động, ngay cả gió dường như cũng ngừng thổi trong khoảnh khắc.
A Mạch lẳng lặng quỳ ở đó một lúc lâu, sau đó đứng thẳng dậy, gạt nước mắt, hướng về phía thân cây đại thụ lộ ra một nụ cười tươi tắn sáng lạn, nói: “Phụ thân, con phải mượn bảo bối của cha dùng một chút.” Nói xong liền lấy tay đẩy lớp tuyết dưới tàng cây ra, rút thanh đao bên hông, dùng sức cậy lớp đất lên.
Giờ tuy là giữa mùa đông, nhưng rất may mắn là lớp đất dưới gốc cây rất xốp, trời lạnh như vậy nhưng cũng không bị đông cứng lại. A Mạch đào một hồi, đã nhìn thấy trong lớp đất lộ ra một sắc vải màu xanh.
————————-
Chú thích:
- Đêm trừ tịch: còn được gọi tên là đêm ba mươi, là khoảng thời gian trước nửa đêm, thời khắc giao thừa giữa năm mới và năm cũ.
Đêm trừ tịch là khoảng thời gian thiêng liêng nhất của năm khi các gia đình xum họp, chuẩn bị đón năm mới với những điều tốt lành sẽ đến và tiễn trừ năm cũ với những muộn phiền đã qua.
- Tương tri tương ái: yêu thương, thấu hiểu nhau