Có một đầm lầy ấm áp trải dài khắp vùng phía nam của Đông lục địa. Ở nơi đó, tồn tại một chủng tộc quái vật được gọi là người thằn lằn (lizardmen). Cơ thể cường tráng của họ lai giữa thằn lằn và con người, và họ có khả năng bao bọc lấy bản thân mình trong nước nhờ pháp thuật. Người thằn lằn đã sử dụng khu đầm lầy này như lãnh thổ của mình từ thời xa xưa và vẫn tiếp tục cư ngụ ở đây chỉ với nguồn thức ăn đến từ những con thằn lằn lớn, cá sấu, chim chóc, và cá sinh sống trong vùng.
Và cuối cùng, một người thằn lằn sinh sống tại đầm lầy, một anh hùng kiêu hãnh của Tộc Đuôi xanh, Gaganpo, để chuẩn bị cho một ngày đặc biệt đến một lần mỗi bảy ngày, đang cọ rửa cơ thể khỏi bụi bẩn sau chuyến đi săn.
Anh kỳ cọ cơ thể bằng nước sạch tại khu vực tắm rửa, nơi được đặt gần rìa của làng. Vì phải lội qua nhũng vũng bùn trong khi mang trong tay những chiếc rìu và giáo có lưỡi và mũi đục đẽo từ đá, cơ thể của người thằn lằn, thứ được phú cho khả năng hạ gục con mồi trước cả khi chúng cảm nhận được điều gì sắp xảy đến, thường bị bao phủ trong một cơ man là bùn. Hôm nay cũng như mọi lần, anh trông thật lấm lem sau khi hạ gục một con cá sấu lớn. Sử dụng dòng nước trong mát chảy ra từ khu vực tắm rửa, anh làm sạch cơ thể của mình.
Khi những đám bùn được rửa trôi khỏi người, cơ thể của Gaganpo dần dần lộ ra. Gaganpo, để kiểm tra xem cơ thể được sạch sẽ chưa cũng như để sưởi ấm bản thân sau khi tắm gội bằng nước lạnh, dang rộng cơ thể ra và đón nhận lấy ánh nắng mặt trời.
Thứ ánh nắng mặt trời đang chiếu vào là một cơ thể cao hơn những người thằn lằn bình thường một cái đầu với những bó cơ săn chắc. Có thể làm nảy bật cú chém đến từ lưỡi kiếm sắt ngu ngốc của con người, da của anh được phủ lên một lớp vảy xanh lá mạ óng ánh với một chút xanh dương và đây đó rất nhiều vết sẹo. Đã tám năm kể từ khi anh mổ vỡ lớp vỏ trứng trong tổ, và Gaganpo, người sở hữu một cơ thể đang ở giữa thời kỳ đỉnh cao và mang theo những kinh nghiệm chiến đấu cùng nhiệt huyết tuổi trẻ như một người thằn lằn thực thụ, là một chiến binh dũng cảm, người đã sống sót qua muôn vàn hiểm nguy, và với anh, những vết sẹo này chính là những biểu tượng quan trọng nhất cho điều đó.
Sau khi làm sạch bản thân từ nước suối, anh lau khô cơ thể mình bằng chiếc khăn được dệt từ những cái cây mọc ở dưới mặt nước. Khi anh nhìn thấy lớp vảy trên cơ thể đã trở nên sáng bóng và có một chút lấp lánh, anh cảm thấy hài lòng và tự mình khoác bộ áo giáp vào. Bộ giáp của anh, thứ đã được làm sạch và phơi khô, được làm từ da của một con mãng xà (hydra) đã bị hạ gục bởi những người trong bộ tộc mà anh đã chỉ huy. Anh khoác lên bộ giáp được chế tạo đơn giản nhưng lại vững chắc hơn cả thứ áo giáp được mặc bởi những chiến binh con người cao cấp còn được biết đến với tên gọi là ‘hiệp sĩ’. Anh không mang theo chiếc giáo yêu thích của anh, thứ có mũi được làm từ đá đen được đánh bóng. Đã từ rất lâu trước cả khi Gaganpo được sinh ra tại thế giới này, có một quy định rằng ở Nekoya của thế giới bên kia, tất cả các vũ khi cũng như việc đánh nhau đều bị nghiêm cấm.
“Thế này trông ổn rồi.”
Nhìn vào hình ảnh phản chiếu của bản thân trên mặt nước sau khi những gợn sóng tĩnh lại, anh hắng giọng và gật đầu. Công tác chuẩn bị cho chuyến đi tới Nekoya của thế giới khác đã được hoàn thành. Thời điểm lúc này là phù hợp, khoảng thời gian mặt trời rọi thẳng xuống đầu. Gaganpo lấy hơi, và như một con vật được gọi là ngựa mà con người thường cưỡi, anh lao vù tới cánh cửa của Nekoya nằm tại quảng trường của làng.
Tại quảng trường, bô lão và cũng là tộc trưởng của bộ tộc, với chiều cao thấp hơn tương đối so với của Gaganpo và có những hình xăm đầy khắp cơ thể như một minh chứng cho đức tin của mình với vị thần thẫm xanh của nước, và những người thằn lằn trong làng tụ tập như chờ đợi cho sự xuất hiện vào bất cứ lúc nào của Gaganpo. Khi người hùng của bộ tộc quay lại làng, họ đập đuôi của mình xuống đất và kêu lên tiếng kêu chào đón. Nghe thấy tiếng đập vang vọng từ những chiếc đuôi, Gaganpo bước tới chính giữa quảng trường.
“Già làng. Con đã chuẩn bị xong.”
“Umu. Vậy khởi hành đi, người hùng.”
Bà già làng, người đã có một cuộc sống trường thọ lên đến hai mươi năm khi so với tuổi thọ của tộc người thằn lằn và có số tuổi gần gấp ba lần Gaganpo, nghiêm nghị gật đầu và thúc giục Gaganpo.
“Gaganpo! Mang theo những viên bạc, viên đồng, và những cái đĩa này với con!”
Trong khi những đứa trẻ khoảng chừng một năm tuổi ngắm nhìn anh với ánh mắt lấp lánh sự mong chờ, người dân đưa cho Gaganpo một chiếc túi chứa đầy những viên đá tròn dẹt làm từ bạc và đồng, thứ họ nhận được từ việc giao thương với bộ tộc người buôn bán sống bên ngoài khu đầm lầy thông qua trao đổi da cá sấu, và những cái đĩa gỗ lớn được lau chùi cẩn thận.
“Umu. Cảm ơn.”
Cầm lấy chúng, đã đến lúc Gaganpo phải đi đến thế giới khác. Anh đứng tại tế đàn, thứ được trang trí bằng những viên đá đẹp đẽ và những bông hoa được lựa chọn kỹ lưỡng từ vùng đầm lầy, nơi chiếc cửa màu đen xuất hiện.
Anh được kể rằng chiếc cửa đen đã xuất hiện lần đầu ở đây trước cả khi già làng được sinh ra. Chiếc cửa đó đã đột ngột xuất hiện tại nơi là tế đàn hiện giờ.
Vào thời điểm đó, người đã liều mạng đi vào cánh cửa dẫn tới một nơi không ai biết cũng là một anh hùng của Tộc Đuôi xanh, Gerupa, người được mệnh dang là chiến binh mạnh nhất. Ông bước qua phía bên kia, tình cờ đến được “Nekoya của thế giới khác”, và mang về những loại thức ăn tuyệt vời của thế giới bên kia.
Sau đó, chiếc cửa đen xuất hiện một lần vào mỗi bảy ngày, và mỗi lần một năm, cả bộ tộc sẽ tổ chức một lễ hội thi đấu xem ai là chiến binh mạnh mẽ nhất. Và phong tục là người mạnh nhất, anh hùng, sẽ đi tới Nekoya và mang về thức ăn của thế giới khác.
“Vậy thì. Tôi đi đây.”
Mang theo ánh nhìn đầy hy vọng của những bé gái sau lưng, Gaganpo mở cửa. Tiếng chuông cửa vang lên leng keng cũng là lúc Gaganpo bước qua bên kia và đến với Nekoya của thế giới khác.
“Xin mời vào.”
“Mu. Đây.”
Vị chúa tể ở thế giới khác... Gaganpo gật đầu và đáp lại lời chào của ông chủ. Nhờ vào pháp thuật của thế giới khác, ngôn ngữ của người thằn lằn được chuyển đổi thành ngôn ngữ con người, hoặc chính xác hơn, ngôn ngữ của thế giới khác. Qua đó, Gaganpo có thể nói chuyện với ông chủ thậm chí còn dễ dàng hơn với con người sinh sống ở bên thế giới của anh.
“Cơm trứng omellete. Suất siêu lớn. Trứng omellete, ba suất, mang về.”
Thả người mình một tiếng ‘phịch’ xuống ghế, Gaganpo đưa những chiếc đĩa gỗ cho ông chủ nhà hàng và nói y hệt mọi lần. Người anh hùng đầu tiên đến nơi này được vị chúa tể ở thế giới khác nói cho ý nghĩa của từ ‘gọi món’, thứ thể hiện rằng bạn muốn có món ăn ở thế giới khác này. Sau đó, Gaganpo và những người thằn lằn khác đã có thể có được những món ăn tinh tế của thế giới khác qua trao đổi bằng những viên bạc và đồng.
“Tôi hiểu rồi. Làm ơn đợi tôi một chút.”
Sau khi xác nhận yêu cầu, ông chủ gật đầu, cầm lấy mấy chiếc đĩa gỗ, và hướng về phía sau nhà hàng.
Sau đó, trong lúc chờ đợi món ăn, Gaganpo chỉ di chuyển đôi mắt của anh hướng tới nội thất của nhà hàng. Bởi vì cũng vừa đúng giờ ăn trưa, có rất nhiều người bên trong nhà hàng như các elf với những đôi tai nhọn hoắt, những người lùn với chiều cao khiêm tốn và có cả tóc mọc ra trên cằm, và cuối cùng là con người, trông không giống hai chủng tộc kia, đang ngồi trên ghế.
Cũng giống như Gaganpo, họ, những cư dân ở cùng thế giới với Gaganpo, đều đến thế giới khác này thông qua cánh cửa. Dựa vào lời nói của một con người bộ tộc thương nhân mà người thằn lằn đã trao đổi da thú lấy những viên đá, bên ngoài khu đầm lầy Gaganpo sinh sống, có một thế giới vô cùng rộng lớn. Đối với Gaganpo, người không biết thứ gì ngoài khu đầm lầy anh sinh sống, đây là một thứ anh không thể tưởng tượng ra được.
Nhưng, ngay khi bước chân qua cánh cửa, Gaganpo đã hiểu ra rằng cánh cửa không chỉ xuất hiện trên mỗi mảnh đất quê hương anh. Những người ở đây cũng đang ngấu nghiến món ăn của thế giới khác như thể nó thực sự là thứ ngon miệng nhất trần đời. Nguồn gốc và chủng tộc của họ có thể không giống nhau, nhưng họ có chung một mục tiêu. Bởi vì đây chính là nơi tuyệt vời như vậy, họ sẽ không muốn làm hỏng bất kỳ món ăn nào chỉ vì chuyện đánh nhau.
“Cảm ơn vì đã chờ đợi. Còn về phần trứng omelette, tôi sẽ đưa cho anh khi anh chuẩn bị ra về.”
“Mu. Vậy xin nhờ anh.”
Và rồi, Gaganpe cuối cùng cũng được đối diện với thức ăn của thế giới khác. Một đường đỏ sặc sỡ được vẽ lên trên món ăn màu vàng óng. Phảng phất từ món ăn được gọi là ‘cơm omellete’ là mùi thơm của trứng rán khiến cho nước bọt ừng ực chảy xuống cổ họng của Gaganpo, và anh vui vẻ cầm lấy chiếc thìa bóng loáng.
“Itadakimasu.”
Sau khi nói một lời tạ ơn trước khi ăn đã được dịch qua ngôn ngữ của thế giới bên kia, anh nhấc chiếc thìa lên. Dễ dàng xắn qua phần trứng mềm đến mức như chỉ cần đặt chiếc thìa lên là có thể cắt ra được, và từ phần được xắn ra, anh nhìn thấy phần nhân đỏ đầy đặn bên trong. Đó là những hạt ngũ cốc tạo thành phần nhân màu cam và óng ánh chút sắc đỏ. Cùng ở đó, có những hạt đậu màu xanh lục tạo nên một nét tương phản sống động. Thịt chim tẩm muối. Những loại nấm và rau ở thế giới bên ngoài, thứ không thể nào xuất hiện để thu hoạch tại vùng đầm lầy. Tất cả chúng đều được xắt nhỏ và kết hợp thành một nguyên liệu lớn, thứ sẽ được bao bọc bởi lớp trứng vàng ươm.
Đó là phong cách nấu ăn của thế giới khác.
Trong khi cảm nhận về món ăn, Gaganpo đồng thời đưa một thìa cơm, vật dụng khá nhỏ bé so với một người thằn lằn, vào miệng. Một thìa đầy, chứa rất nhiều loại nguyên liệu đã được trộn với nhau.
“Mu.”
Ba mươi năm trước, khi người anh hùng được chọn của ngôi làng bước qua cánh cửa, một vị ngon giống hệt như lần đầu họ được thưởng thức nó lan toả trong khoang miệng của Gaganpo. Đầu tiên, hương vị anh cảm nhận từ lúc bắt đầu đương nhiên đến từ trứng rán. Mặc dù cách chính xác để làm ra món trứng thế này anh không biết, nhưng nó có độ mềm tinh tế mà người dân của anh không thể nào tái dựng lại mặc cho bao nhiêu quả trứng cá sấu đã được đem thử. Nó có hương vị của sữa và bơ, và cùng với một vị mặn rõ nét, anh cũng cảm nhận được một vị ngọt nhẹ nhàng. Và thứ nâng tầm vị ngon của những quả trứng mềm mại, nhẹ nhàng là thứ màu đỏ chua được rưới lên trên. Sự kết hợp của trứng và chất màu đỏ, chua này đã khai sinh ra một hương vị đặc sắc. Chỉ với thứ màu đỏ và món trứng thôi đã đáng trở thành món ăn được tôn vinh rồi.
Tiếp theo, anh cảm nhận được vị ngon của phần nhân bên trong. Thịt gà, thứ được tẩm muối để giữ lại vị ngon, chảy tràn ra thứ nước thịt đậm đà cùng với vị mặn khi anh cắn vào, và chúng sẽ bao phủ lên hương vị của những lát nấm của thế giới bên ngoài.
Rau của của thế giới khác được xắt hạt lựu đều rồi được xào lên để tăng thêm vị ngọt, và những hạt ngũ cốc màu cam sẽ nhẹ nhàng phủ những hương vị phức tạp đó lên mình. Chính loại ngũ cốc này đã bao trọn lấy tất cả hương vị của các nguyên liệu và hoà quyện chúng lại thành một hương vị thống nhất.
Hương vị đó khiến Gaganpo bất giác nhắm hờ mắt lại khi nuốt. Phước lành đến từ chỉ một thìa cơm, nhưng nó vẫn chưa kết thúc. Bởi vì trong đĩa anh vẫn còn rất nhiều.
Một cách vội vã, Gaganpo bắt đầu đưa thìa. Chiếc đĩa lớn, lớn hơn tất cả những chiếc đĩa trên bàn các thực khách khác, thứ chứa một suất cơm omelette siêu lớn dần trở nên sạch trơn.
“Mu. Suất thứ hai.”
“Tới ngay đây.”
Trước khi ăn hết suất ăn trên bàn, anh gọi luôn thêm một đĩa như vậy nữa.
Từ lần đầu tiên anh được thưởng thức nó vào ba năm trước, Gaganpo đã trở thành một tù nhân của hương vị này như tất cả những người anh hùng khác. Không lâu sau đó, bữa ăn đã kết thúc và Gaganpo thở dài một hơi mãn nguyện. Sau khi thoả mãn cái dạ dày, anh trầm ngâm trong một cảm giác hân hoan.
“Gochisousama.”
Sau khi thì thầm một lời cảm tạ sau bữa ăn, thứ cũng được dịch sang ngôn ngữ của thế giới khác, Gaganpo ngồi chờ đợi người chủ nhà hàng.
“Okay, cảm ơn vì đã chờ đợi. Ba phần omelletes ăn-theo-nhóm mang về, đúng không?”
“Mu. Đặt vào đây.”
Chờ đợi Gaganpo ăn xong, ông chủ nhà hàng đặt những phần ăn ‘mang về’ của Gaganpo vào những chiếc đĩa gỗ anh đưa khi nãy và bày chúng lên bàn. Thứ nằm trên đĩa là một phần trứng lớn được gọi là omellete. Có tổng cộng ba phần ăn được mang về cho bộ tộc như là phần quà lưu niệm, và chúng được xếp và gói trong một tấm da bí ẩn và trong suốt.
“Mu. Trả tiền.”
Gật đầu sau khi nhìn thấy ba suất omellete, Gaganpo lấy ra chiếc túi anh mang bên mình và mở nó ra, cho người chủ thấy những viên bạc và viên đồng bên trong. Người chủ là người có hiểu biết về mấy thứ này nên ông lấy ra chính xác số tiền cần thanh toán rồi trả lại cho Gaganpo cái túi.
“Sẽ quay lại.”
Nói ra những từ này, Gaganpo thắt chặt lại túi tiền rồi đứng thẳng dậy. Đối với Gaganpo và những người đồng bào, những viên đá bạc và đồng này chả có giá trị gì so với những viên đá họ sử dụng làm vũ khí. Mặc dù anh cho là vậy, nhưng ông chủ lại muốn những viên bạc và đồng này hơn những con cá họ đã phơi khô, những lưỡi dao làm từ đá đen, da cá sấu, hay tất cả ‘những thứ có giá trị’ với họ; chính vì thế, họ đã phải trao đổi để lấy những viên bạc và đồng này.
“Tạm biệt.”
Gaganpo chào và nhẹ nhàng nhấc ba cái đĩa đầy đồ ăn đi... những cái đĩa mà ông chủ chỉ có thể mang ra từng cái một. Một cái đĩa nằm trên tay phải anh, một cái ở tay trái. Và cuối cùng, cái còn lại được đặt trên đuôi. Dễ dàng mang ba chiếc đĩa chứa suất ăn omelletes đấy ắp và nặng đi, anh từ tốn hướng ra phía cửa.
“Vậy thì, lần tới lại quay lại nhé.”
“Mu.”
Gật đầu với người chủ đang đứng mở cửa cho mình, Gaganpo rời đi. Nơi anh hướng tới là tế đàn quen thuộc làng anh. Xung quanh tế đàn là những đồng bào người thằn lằn chờ đợi sự trở về của Gaganpo... đang chăm chăm nhìn về phía tế đàn.
“Tôi đã quay về. Thức ăn tôi mang về đây.”
Gaganpo hô to và nâng ba chiếc đĩa lên trên trời cho cả làng trông thấy. Khi những người thằn lằn nhìn thấy chúng, họ đồng loại vỗ đuôi xuống đất và hò hét trong vui mừng.
Ngay lập tức, những người phụ nữ trẻ tiến tới Gaganpo và lấy những chiếc đĩa. Họ lấy chiếc đĩa được bọc trong lớp da trong suốt xuống và đặt thành hàng trước mặt già làng, rồi họ từ tốn bóc lớp da đấy ra một cách cẩn thận để không làm rách chúng. Giây phút lớp da được bóc đi, một hương thơm tinh tế toả ra xung quanh và kích thích những người thằn lằn.
Đối với người thằn lằn, không có gì quý giá hơn đĩa trứng vàng óng này. Khi những người thằn lằn nhìn thấy chúng... với một tiếng ực, họ nuốt nước bọt.
Già làng chia đều những phần trứng trong đĩa bằng con dao bằng đá đen đã được mài sáng bóng. Đều nhau nhất có thể. Để ai cũng có thể được ăn một miếng.
Lộ ra trên đĩa omelette thứ nhất là phần thịt băm cùng oranie thái mỏng được xào với nhau. Vị ngon của thịt băm được nêm nếm đơn giản với tiêu và muối, vị ngọt nhẹ đến từ oranie, hương vị đặc biệt của trứng và dung dịch màu đỏ khiến cho người ăn có thể cảm thụ được các nguyên liệu dễ dàng.
Lộ ra trên đĩa omelette thứ hai là thịt hun khói được rán đảo qua và phô mai trắng. Loại thức ăn của con người có hương vị đặc trưng được gọi là phô mai và thịt hun khói, thứ được ướp với muối sau khi hun trong khói, là hai nguyên liệu có hương vị béo ngậy, thứ không thể tìm thấy tại vùng đầm lầy này. Thịt hun khói có một vị ngon khác biệt không hề có trong thịt nướng thông thường, và cách phô mai tan chảy trong miệng tạo nên một cảm giác tuyệt vời.
Cuối cùng, lộ ra trên đĩa omellete thứ ba là kem trắng đượm vị ngọt cùng với những con schripe hồng hào, nhỏ nhắn. Loại kem trắng có vị ngọt nổi trội nhất, và schripe tạo cho món ăn một hương vị mềm mại.
Trong lúc mùi thơm toả ra từ ba món ăn khiến cho họ nhắm mắt ngất ngây, những người thằn lằn bắt đầu lo lắng. Để có thể chia đều cho tất cả mọi người, họ chỉ có thể ăn một miếng trong số đó. Họ nên ăn miếng nào? Sẽ thật là hay nếu họ có thể được ăn cả ba. Trong lúc mông lung suy nghĩ về điều đó, họ nóng lòng chờ đợi sự cho phép của già làng. Và cuối cùng.
“Mọi người có thể ăn.”
Một cách trang trọng, sử dụng đặc quyền chia phần omelettes của mình để tiến lên trước và cầm lấy một miếng omelette phô mai, già làng ra dấu cho phép, và cùng lúc đó, cả bộ tộc lao về phía những chiếc đĩa như một cuộc đua để lấy phần ăn omelette đã được chia của mình. Bé hơn cả lòng bàn tay, đó chỉ là một phần omelette nhỏ nhắn. Dù vậy, nó là một thượng phẩm mà người thằn lằn chỉ có thể được thưởng thức một lần mỗi bảy ngày, và đối với những người dân trong Tộc Đuôi xanh, đó là một kho báu không gì quý bằng.
Một số ăn hết chỉ trong một miếng, một số khác chỉ nhâm nhi từng chút từng chút một, trong lúc nhắm mắt lại trong niềm hạnh phúc tột cùng và vỗ cái đuôi của mình xuống đất.
Tuy nhiên, người không lại gần những cái đĩa mà chỉ đứng nhìn từ xa chính là Gaganpo. Bằng đặc quyền của một người anh hùng, Gaganpo, người đã được ăn cơm omelette no nê, không được chia phần omelette. Gaganpo dù vậy vẫn tỏ ra chút thất vọng khi nghĩ về điều này.
(Cũng gần đến mùa lễ hội rồi.)
Ngắm nhìn khung cản trước mặt và suy nghĩ về hương vị của món cơm omelette vừa ăn lúc trước, Gaganpo chợt nghĩ tới điều đó. Danh hiệu anh hùng cho bạn quyền lợi được ăn cơm omelette thoả thích, điều đấy ai cũng biết. Vậy sẽ có bao nhiêu chàng trai trẻ sẽ nhắm tới danh hiệu này?
Nhưng bây giờ, anh không hề có ý định nhường danh hiệu này cho ai khác. Bởi vì Gaganpo vẫn chưa được ăn đủ cơm omelette.
(Một lần nữa, mình sẽ trở thành anh hùng. Và rồi...)
Năm sau mình sẽ ăn nhiều cơm omelette hơn nữa.
Anh hùng của Tộc Đuôi xanh, Gaganpo, trong lúc nghĩ ngợi về những lần ăn tới và thắt chặt quyết tâm của bản thân hơn nữa, quật đuôi một tiếng ‘bịch’ thật mạnh xuống dưới đất.