Ánh Sáng Cuối Con Đường

chương 389: những xiềng xích lâu ngày

Truyện Chữ Hay
Tùy Chỉnh
Truyện Chữ Hay

GÓC NHÌN CỦA ARTHUR LEYWIN

Những dấu vẽ màu tím tạo thành từ chiêu Realmheart đang đốt nóng trên da khi tôi kích hoạt Godrune này. Giờ tôi có thể nhìn thấy và cảm nhận được mana một lần nữa, cảm giác mình được kết nối với không gian vật lý xung quanh theo cách mà trước đây tôi không làm được tính từ khi thức dậy trong Khu Tàn Tích (Relictomb).

Mùi mồ hôi và mùi ôzôn, cảnh những vi hạt mana lăn tròn và nhào lộn ra khỏi lõi mana của Mica, tiếng thở nặng nhọc của anh Bairon, và thậm chí cả sức nặng từ chính cơ thể tôi đè xuống mặt đất bên dưới, tất cả đều hòa quyện vào nhau như một tấm thảm được dệt nên bởi các cung bậc cảm xúc đan xen.

Tôi tập trung nhìn vào lượng mana đang chạy dọc theo cánh tay chị Mica rồi lao vào cái búa lớn đang vung bằng cả hai tay của chị ấy. Cái búa trở nên dày cộm hơn và cứng lại, thậm chí còn phồng to lên rồi lớn hơn nữa một cách bất thường. Âm thanh của sấm sét va chạm rồi dẫn điện lan ra khắp hang động, và cái búa vỡ tan, nổ thành hàng triệu mảnh bén như dao.

Mica lăn dưới ngọn giáo bọc tia sét khi các mảnh đá vỡ lúc đang bay thì rung lên và dừng giữa không trung, quay lại lao vào mục tiêu của chị ta. Có sự tĩnh điện nổ lốp bốp đang lan tỏa trong không khí, và những mảnh đá vỡ bị nhiễm từ, va vào nhau và chuyển hướng bay. Một số ít tiếp cận được anh Bairon thì nổ tung trước rào chắn mana của anh ta.

Đằng sau một lớp băng trong suốt bảo vệ chúng tôi khỏi bất kỳ phép thuật nào lạc đạn, chị Varay đứng bên cạnh tôi đang cử động nhẹ. Đôi mắt chị ta nhắm hờ khi tập trung vào việc cảm nhận lõi mana tỏa sáng của hai Lance và độ mạnh từ khả năng vận mana của họ nhiều hơn là tập trung các khía cạnh vật lý và kĩ thuật đánh trong trận giao tranh này. “Tôi cảm thấy lõi của cả hai người họ đều mạnh. Lượng mana gần lấp đầy lõi rồi.”

Tôi cắn phải lưỡi. Đúng là họ đã gần quay lại như lúc sức mạnh ở mức sung mãn nhất, nhưng…

“Nhưng toàn bộ sức mạnh của họ còn không làm sứt mẻ nổi một cháu asura mới biết đi,” Regis cắt ngang, nhìn lên từ trong góc nơi cậu ta đang nằm, không quan tâm đến trận đấu.

Không khí trong phòng hóa thành nặng nề khi trọng lực tăng lên. Trở nên vất vả, anh Bairon đang cố chống chọi với trọng lượng khổng lồ từ chính cơ thể mình, đang đe dọa kéo anh xuống đất. Cát xoáy quanh anh ta và cứng lại thành những tảng đá rồi bay ngay tức khắc về phía anh ấy.

Một tiếng sét khác làm rung chuyển cả hang luyện tập, mana lôi hệ rung chuyển và lóe ra tia sáng trong tầm nhìn được tăng cường từ chiêu Realmheart của tôi.

Những mảnh đá rung lên nhưng không vỡ, hình dạng của chúng bằng cách nào đó dường như nhòe đi vô định trong giây lát, rồi chúng đập vào anh ta. Thay vì các cục đá rắn nhào thẳng vào tấn công, thì chúng lại phát nổ quanh người anh Bairon như bùn - hay có thể là cát lún - quấn lấy anh ấy từ đầu đến chân. Lõi của chị Mica lại rung đập mạnh khi giải phóng mana, và cát biến thành đá, đông cứng lại quanh cơ thể anh ta.

Mắt anh Bairon giãn ra, và tóc trên đầu dựng đứng.

Một lớp áo choàng sét cuộn quanh người anh, và tia sét xuyên qua đá, khiến nó vỡ ra trước khi có thể cứng lại hoàn toàn.

Sét lan ra như mạng nhện khắp sàn nhà với tâm là chỗ dưới chân anh, tạo ra nhiều tia chớp nhỏ riêng lẻ bắn lên từ mặt đất để phá hủy các mảnh đá mà chị Mica cố gắng điều khiển, bao gồm cả chiếc búa đang hình thành một lần nữa trên tay cô.

Các dòng điện — có thể nhìn thấy dưới dạng các chuỗi dòng chảy mana màu vàng sáng — chạy lên cánh tay chị Mica, khiến nắm tay chị ta co thắt lại và siết chặt quanh cây búa. Mắt mở to khi cơ bắp nhanh chóng bị tê liệt do quá tải điện năng. Nhưng ngay cả khi chị ấy đột ngột đảo ngược trọng lực và khiến anh Bairon lao thẳng lên trần nhà, nó vẫn chưa đủ để phá đòn phép của anh ấy.

Với việc sử dụng chiêu Thunderclap Impulse, anh Bairon có thể phản xạ với độ chính xác gần như tức thì. Anh ấy xoay người trên không trung, ổn định bản thân để lơ lửng lộn ngược, và kích hoạt lượng điện lớn tỏa ra như mạng nhện cháy sáng khắp sàn.

Mỗi tia điện năng nhỏ lại tạo thành một tia chớp bé xíu đánh ra dường như ngẫu nhiên theo một hướng nào đó, xé toạc các bức tường và trần nhà để tạo thành một loạt các tia sét hình xoáy lung tung chạy hỗn loạn đầy hang động.

Tôi cảm thấy mana ở rất gần, gần đến mức như thể tôi có thể chạm vào nó. Ký ức về mặt cơ học vẫn còn đó, và cơ bắp như co giật khi tôi theo dõi trận chiến, giống một người lính cụt một tay cố gắng nhấc cánh tay bị mất lên để tránh đòn.

Thở dài một tiếng, tôi liếc nhìn cánh tay băng của chị Varay tạo từ phép thuật. Một dòng mana loại deviant (dị thuật) băng hệ tuy mảnh khảnh nhưng vững vàng đang chảy từ tốn ở lõi chị ấy ra cánh tay để duy trì hình dáng của nó. Nếu chị ta có thể dùng mana để nhân đôi hiệu quả so với việc dùng một cánh tay vật lý, thì liệu tôi cũng có cách nào đó để tái tạo những gì đã mất không?

Một làn khói lờ mờ từ cát mịn bay lên lấp đầy hang, hấp thụ điện và vô hiệu hóa đòn phép của anh Bairon. Bàn tay còn lại của chị Mica đang trồi ra một cái búa mới, được làm từ sắt xỉn màu. Mana sét làm tê liệt cơ bắp của cô ấy đã bị rút ra khỏi người và chuyển qua chiếc búa kim loại đó. Tóc anh Bairon xẹp xuống, báo hiệu chiêu Thunderclap Impulse kết thúc, ngay khi chị Mica ném một khúc sắt nhiễm điện vào người anh Bairon. Cùng lúc đó, trọng lực lại lật ngược, và lần này thân anh ấy bị giật lùi ra sau va vào bức tường gần nhất.

Tôi tập trung vào cách aether trong không khí phản ứng hoặc không phản ứng với mana. Nó dường như hoàn toàn phớt lờ mana, đồng thời cùng lúc chiếm các chỗ trong không khí mà không bị chiếm bởi mana. Không phải là aether tránh né hay định hình mana, không hẳn vậy. Nếu nghĩ rằng mana và aether là hai lực định hình lẫn nhau thì chính xác hơn, giống như một dãy núi hình thành từ chính sự lan dần của dãy núi trong khi sự lan dần của dãy núi đó xuất hiện lại là do quá trình xói mòn.

Tuy nhiên, giống như phép ẩn dụ về nước và cái cốc của bà Myre, ý tưởng này thất bại do không nêu ra được cách giải thích mối quan hệ giữa hai lực này một cách đúng đắn hơn.

Bị ghim chặt vào tường, anh Bairon không phản ứng kịp để tránh chiếc búa kim loại nhiễm điện của chị Mica. Nó đâm sầm vào anh ta, và anh ấy bị mất hút trong một đám bụi và xà bần.

Các vi hạt mana có thể nhìn thấy đang tan biến dần khi sự tập trung của tôi vào Realmheart không còn nữa.

“Bairon?” chị Varay hỏi, bước ra khỏi lớp băng bảo vệ trong suốt.

Một tiếng ho khan phát ra từ trong lớp bụi, sau đó bóng dáng anh Bairon xuất hiện trở lại, hơi khom người. Anh ta đứng thẳng người và bẻ vai bẻ cổ khi sải bước đi trở lại chỗ đất trống của sân tập. Phía sau anh ta, lớp bụi mờ dần, để lộ một lỗ hổng trên tường hang sâu đến vài thước. “Đánh hay lắm, Lance Mica. Tôi cảm thấy gần như hồi phục. Cô dường như cũng vậy.”

Chị Mica uốn cong cánh tay vẫn cầm chiếc búa quá khổ của mình. “Vâng, Mica cảm thấy tốt hơn nhiều.”

Các Lance đã bị vắt cạn sức đến mức cơ thể họ phản ứng ngược dữ dội trong cuộc chiến với Taci, với những vết thương sẽ để lại dấu ấn cho suốt phần đời còn lại của họ. Mặc dù những lớp vẩy quanh mắt Mica đã rụng dần đi để lộ những vết sẹo sáng rõ, nhưng con mắt sẽ không bao giờ lành lại được.

Cánh tay băng ma thuật của chị Varay và viên đá mã não nặng nề nằm trong hốc mắt của Mica sẽ ở lại với họ như lời nhắc nhở rõ ràng về cái chết cận kề của họ, nhưng đối với tôi, chúng là một điều hoàn toàn khác.

Cả bốn Lances cùng nhau mà không thể đánh bại được Taci. Thậm chí chị Aya đã hy sinh mạng sống chỉ để làm hắn ta chậm lại. Và Taci chỉ là một thằng nhóc theo tiêu chuẩn của tụi asura. Làm sao tôi có thể mong đợi họ có thể chống lại những kẻ như Aldir hay Kordri, chứ đừng nói là cỡ Kezess và Agrona?

Thật sự là chúng tôi đang chuẩn bị cho một cuộc chiến chống lại các vị thần, nhưng chúng tôi trước đó còn thua cuộc chiến chống lại con người nữa, và những pháp sư mạnh mẽ nhất của chúng tôi chẳng những không phát triển được thêm sức mạnh mà còn không thể làm thế.

‘Vẫn còn đó Số Phận (Fate),’ Regis nhắc lại cho tôi nhớ. ‘Có lẽ họ sẽ không phải chiến đấu nếu chúng ta chuồn vào Khu Tàn Tích.’

(Nguyên văn: “There is still Fate”. Từ “Fate” được tác giả viết hoa một cách cố tình như một danh từ riêng, không nhớ rõ là trong mấy trăm chương trước có đề cập đến Fate này hay không, hay chỉ là số phận và định mệnh nói lấp liếm chung chung như cách nói của Rinia hay lúc Myre mô tả sức điều khiển của aether)

Hoặc là, vào lúc chúng tôi chạy vào đó, tôi nghĩ lúc đó chẳng còn thế giới nào để cứu nữa, cảm thấy sự phiền muộn u ám đang len lỏi bao trùm lấy tâm trạng tôi.

Thay vào đó, tôi quay lại với các Lance và nở một nụ cười trên môi. “Thế anh Bairon, làm sao mà chị Mica chỉ có một con mắt mà có thể thắng vậy?”Một nét cau có thoáng nhanh qua mặt anh Bairon, nhưng nó nhanh chóng chuyển thành một nụ cười nhăn nhó khi anh ấy nhìn vào biểu cảm của tôi. “Chà, cậu biết cô ấy sẽ gắt gỏng thế nào khi cậu không để cô ấy giành chiến thắng mà.”

Chị Mica giậm chân và khoanh tay khiến cô ta trông trẻ con hơn bao giờ hết. “Anh đã để tôi thắng, phải không? Có lẽ nếu anh linh hoạt hơn, Bai, anh đã không kết thúc bằng cách vùi sâu vào tường mười feet.”

Tôi cười khúc khích và cảm giác chua xót đang tan dần. Ngay cả một bên môi chị Varay cũng nhếch lên trông giống nụ cười.

“Tuy nhiên, em tò mò rằng anh đã làm gì với những tia sét nhỏ tỏa ra trong khi anh đang dùng chiêu Thunderclap Impulse?” Tôi hỏi. “Em không thể theo kịp các chuyển động vi mô khi phản ứng của anh quá nhanh.”

Anh Bairon hơi quay đầu sang một bên tỏ vẻ ngạc nhiên khi nhìn tôi. “Cậu có để ý à? Nhưng làm thế nào? Tôi…” Anh ấy tự ngắt ngang lời bản thân bằng một nụ cười kiểu không tin nổi. “Thôi đừng bận tâm, không có gì cậu làm được khiến tôi ngạc nhiên nữa. Đối với câu hỏi của cậu, tôi có thể mở rộng thêm khoảng cách cảm nhận của các giác quan mình thông qua mana lôi hệ khi sử dụng chiêu Thunderclap Impulse.”

“Vậy là thậm chí anh đã cải thiện được phép thuật của tôi. Ấn tượng đấy.”

Chị Mica khịt mũi. “Nếu anh định giỏi mỗi một trò thôi, thì tốt nhất đó nên là trò hay đấy nhé.”

“Có lẽ đầu cô đã phát triển quá to so với cơ thể quá bé đấy,” anh Bairon nói, uốn hai bàn tay và tạo ra dòng điện chạy giữa các kẽ các ngón tay. “Tôi nghĩ rằng ta cần một trận tái đấu.”

“Thực ra,” chị Varay cắt ngang, nhướng mày về phía tôi, “Tôi hy vọng Arthur có thể đồng ý đấu với tôi. Đã rất lâu rồi chúng ta không đấu với nhau. Tôi biết tôi đang nói thay cho cả ba người chúng tôi khi nói rằng chúng tôi muốn xem xét kỹ hơn khả năng của cậu.”

Tôi nghĩ về điều này, rồi lắc đầu. Mặc dù tôi biết rằng tôi cần phải giúp các Lance lớn mạnh hơn - bằng cách nào đó - nhưng tôi không nghĩ rằng chiến đấu là một cách. “Thực ra, tôi chỉ đang kiếm cớ cho bản thân thôi. Tôi đang chờ Gideon làm điều gì đó, và tôi muốn đi kiểm tra tiến triển từ nghiên cứu của ông ấy.”

“Đã hiểu,” chị ta trả lời. “Tôi cho rằng tôi nên đi gặp hai Lãnh chúa Earthborn và Silvershale để kiểm tra những thay đổi về phòng thủ mà họ đang thực hiện đối với thành phố.” Tôi có thể cảm nhận được sự lưỡng lự che giấu khá nhiều trong giọng nói của chị Varay. Khi tôi nở một nụ cười gượng gạo, chị thở dài. “Họ cứ kèn cựa nhau thật là mệt mỏi.”

Tôi cười khúc khích và nói, “Chà, chúc may mắn với điều đó.” Tôi vẫy tay chào tạm biệt ba Lance, sau đó bắt đầu đi xuống đường hầm dài dẫn lại về thành phố Vildorial, nơi tôi đi vòng quanh thành phố để đến Viện Earthborn. Regis lặng lẽ đi theo sau tôi.

Cổng vào trường được canh gác, nhưng những người lùn ở đó chỉ thận trọng quan sát khi chúng tôi đi ngang qua. Các hành lang bằng đá chạm khắc ở trường ồn ào với tiếng ầm ầm liên tục của máy móc, tôi cảm thấy mình ngập trong bất kỳ tiếng ồn nào mà phòng thí nghiệm của Gideon có thể tạo ra, và cuối cùng, tôi phải hỏi đường từ một giảng viên đi ngang qua để dò tìm xem ông ta đang ở đâu.

Việc tìm ông ấy dẫn tôi đi sâu vào trung tâm của ngôi trường nơi các hành lang đơn sơ và không được trang hoàng, trông giống như nhà tù hơn là một cơ sở giáo dục. Ở bên phải tôi, những cánh cửa bằng đá nặng nề xếp đều dọc hai bên hành lang, trong khi ở bên trái những cánh cửa cách nhau xa hơn nhiều. Tôi tìm thấy mục tiêu của mình ở nửa cuối hành lang.

Cánh cửa hé mở một phần, lý do có lẽ liên quan đến cái nóng khô rát và mùi thối như có gì đang cháy phảng phất ra hành lang, giọng nói gay gắt của Gideon vang lên cùng nó.

“Bahhh. Ta bắt đầu từ đầu nhé. Emily, cô đã viết ra tất cả những điều này chưa?”

“Viết ra cái gì chứ, Giáo sư? Ta đã không rút ra thêm được bất cứ điều gì mới trong nhiều giờ rồi,” cô nói, giọng điệu đầy vẻ không phục tùng và trêu chọc.

“Đừng gọi tôi như vậy, cô gái, và chỉ cần… viết ra tất cả những gì tôi nói.”

“Vâng, thưa ngài,” cô ấy trả lời, cái đảo mắt của cô ta thực sự có thể cảm thấy từ ngoài hành lang.

Tôi lách qua cửa và đứng dựa vào khung cửa, nhưng không thông báo sự hiện diện của mình. Regis thò đầu vào bên cạnh tôi. “Ở đây có mùi mấy thằng ngốc này.”

Gideon và Emily đang đứng cạnh một cái bàn kim loại được phủ một lớp da rách rưới bị cháy xém. Một số vật tạo tác dùng để chiếu sáng treo lơ lửng trên bàn, chiếu ánh sáng rực rỡ xuống một số vật tạo tác khác đã được đặt cẩn thận trên bàn.

“Chúng ta biết rằng—”

“Nghĩ đi,” Emily ngắt lời.

“—rằng cây trượng hắc thạch là thiết bị chính được sử dụng trong một nghi lễ gì đó mà chúng ta được biết là ‘lễ ban tặng’ (bestowal ceremony), một nghi lễ sử dụng những vật tạo tác này để ban cho các pháp sư ở Alacrya ‘những cổ tự’ —”

“Một dạng phép thuật,” Emily nói.

“—Nhưng chỉ đơn giản truyền mana vào cây trượng sẽ không gây ra phản ứng nào ngay tức khắc hết.”

Nằm dọc theo chiều dọc cái bàn là một cây trượng có gắn hắc thạch, giống như cái mà tôi từng thấy ở Thị trấn Maerin trong buổi lễ ban tặng của họ. Viên ngọc tinh thể gắn ở đầu trượng sáng lấp lánh bốn màu lục, lam, vàng, đỏ. Có một điều vốn không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng rõ ràng như ban ngày đối với tôi, là sự tụ tập các vi hạt aether chứa trong cục tinh thể này.

Vì tò mò, tôi đã kích hoạt Realmheart.

Hơi ấm tràn qua lưng, dọc theo hai cánh tay và trong tròng mắt tôi khi godrune sáng lên. Thế giới quanh tôi thay đổi nhẹ khi nhìn mana trở nên rõ ràng. Mana thổ hệ bám vào tường, sàn, trần nhà, những thứ đều bằng đá. Sự chuyển động của mana phong hệ bị liệng ra không khí xung quanh trong hình dạng các dòng chảy tinh tế di chuyển ra từ nơi bắt nguồn là mana hỏa hệ bùng cháy trong một vài lò rèn nhỏ lửa được xây ăn sâu vào trong tường.

Emily căng thẳng, và tôi có thể thấy da gà nổi trên cánh tay khi cô ấy đứng từ phía bên kia phòng. Cô ta chậm rãi quay về phía cửa. “Arthur, cái gì v…?”

Gideon quay lại một giây sau đó. Ông ta đầu hơi nghiêng sang một bên và nhìn tôi chằm chằm. “Đi dự tiệc hả nhóc?”

Tôi cười khẩy trước câu nói đùa, nhưng tôi tập trung vào cây trượng: các vị hạt mana bị nén dày đặc khiến nó phát sáng, và ngay cả khi không được kích hoạt, cây trượng dường như đang hút nhiều mana hơn theo kiểu hút từng giọt nhỏ chậm chạp vào chính nó.

Mana cũng đeo bám vào những vật dụng khác trên bàn, nhưng có thể cảm nhận được điều này không cho tôi biết điều gì mới, vậy nên tôi truyền không truyền aether vào godrune nữa. Các vi hạt mana nhạt hình dần đi cho đến khi chúng trở nên vô hình lần nữa, và khả năng cảm nhận về chúng đã bị cắt đứt.

Tôi chớp mắt vài lần khi điều chỉnh mắt theo sự thay đổi trong tầm nhìn. “Vậy là có vẻ như nghiên cứu không được tiến triển cho lắm nhỉ?”

Gideon và Emily nhìn nhau, và Gideon gãi đôi lông mày đang mọc lại gần phân nửa. “Thật khó để xếp các câu đố với nhau khi ta còn không biết câu đố nó trông như thế quái nào,” ông ta càu nhàu, vẫy tay với các đồ tạo tác. “Có lẽ nếu cậu đủ tử tế đến thăm chúng tôi sớm hơn một chút…”

“Chà, bây giờ tôi ở đây rồi nè,” tôi nói khi băng qua phòng đến chỗ cái bàn. “Và tôi đã mang theo một trợ lý nghiên cứu.” Tôi ra hiệu cho Regis, cậu ta đang nhào tới và đặt hai chân trước lên bàn. “Hiểu được công nghệ này là điều rất quan trọng nếu chúng ta hy vọng có thể sánh ngang với người Alacrya, chứ chưa nói tới chuyện so sánh với đám asura.”

“Ừ đúng như cậu nói bóng gió đấy,” Gideon nói một cách gượng gạo, ánh mắt kinh ngạc của ông ta nhìn vào con sói bóng tối đang trầm ngâm nhìn xuống các đồ tạo tác. “Tôi nghĩ” - ông ta liếc Emily bằng một cái nhìn sắc bén—” những chữ cổ tự (rune) được dệt trong áo choàng nghi lễ này có liên quan gì đó đến việc kích hoạt quyền trượng. Nó giống như chìa khóa vậy. Nhưng có một chuỗi các cổ tự không hiển thị rõ ràng ngay, và tôi không muốn thử những thứ này một cách mù quáng. Ai đó có thể bị thương, hoặc tệ hơn là chúng ta lỡ tay phá hủy chiếc áo choàng.”

Lông mày Emily nhướng lên khi cô ấy xem xét lời người cố vấn của mình. “Các ưu tiên của ông dường như không phù hợp với nhau,” cô ta lẩm bẩm.

“Tôi không biết, tôi nghĩ tôi đồng ý với Giáo sư Không Lông Mày (Professor No Brows),” Regis nói cụt lủn, gợi ra một tiếng cười khúc khích từ Emily. “Những chiếc áo choàng chắc chắn là cần thiết.”

“Tôi nghĩ nên nói cảm ơn nhỉ,” Gideon càu nhàu.

“Những ký ức cậu có từ Uto có chứa điều gì hữu ích về lễ ban ấn không?” Tôi hỏi.

Đôi lông mày kiểu chó con của Regis đan vào nhau khi cậu ta cố gắng phân tích sự pha trộn giữa những suy nghĩ và ký ức mà đã kết hợp lại từ thuở ban đầu để mang lại cho cậu ta ý thức. “Uto đã từng thấy hàng trăm lễ ban tặng, thường là các sĩ quan thứ hạng cao hoặc đám thượng huyết tộc. Nhưng chỉ những quan chức mới thực sự tiến hành nghi lễ, và tôi cho rằng đám Instiller và gia tộc Vritra, lũ thiết kế ra những thứ này, mới được dạy những chi tiết cụ thể.”

“Và cái cuốn sách kia không giúp ích gì à?” Tôi hỏi Gideon.

Bên cạnh chiếc áo choàng nghi lễ màu đen là một pho sách dày, vỏ đẹp. Gideon với tay lấy và mở ra một trang ngẫu nhiên. “Đó là một chuỗi danh mục gồm các ấn nhiều loại như mark, emblem, vân vân. Mấy cái ấn được ban bằng cây trượng này, ấn nào hiện ra thì được viết lại cụ thể vào đây. Hấp dẫn đấy, nhưng không giúp ích được gì trong việc sử dụng cái thứ này.”

“Tôi đoán là đã hy vọng quá nhiều rằng cái món này sẽ đi kèm cuốn sách hướng dẫn,” tôi nói.

Mõm của Regis nhăn lại. “Tôi nghĩ cậu đang cố tỏ ra hài hước, nhưng có cái cuốn như thế tồn tại thì cũng dẹp luôn cái mục đích tổ chức một nghi lễ siêu bí mật đi.”

“Ồ, tốt, cậu ta cũng xỉa xói cả cậu luôn,” Gideon nói, nhìn Regis một cách kinh ngạc. “Tôi đã lo lắng rằng thú triệu hồi của cậu cũng chỉ là một dạng kịch câm do cậu tự nói, và tôi đang tự hỏi mình đã làm gì sai để bị cậu xỉa xói.”

“Tôi không có xỉa xói nhá,” Regis trả lời kiểu bào chữa bản thân. “Thấy gì nói đó thôi.”

Tập trung nào, tôi nghĩ điều đó với Regis, sau đó chuyển sự chú ý của tôi trở lại các món đồ tạo tác.

Chiếc nhẫn không gian đa chiều màu đen trơn bóng mà Alaric đưa cho tôi cũng ở trên bàn. Bên cạnh đó, một chuỗi hạt nhỏ được xếp thành một cuộn nằm giữa chiếc nhẫn và cuốn sách. Các hạt có màu trắng pha vàng xỉn, và tôi ngay lập tức nghĩ rằng chúng trông giống như xương.

“Đúng vậy,” Regis nói một cách nghiêm túc, ngọn lửa trên bờm nhào lộn trong sự kích động. “Những mảnh xương được chạm khắc của người djinn cổ, những người mà hài cốt họ bị đánh cắp khỏi Khu Tàn Tích.”

Tôi cẩn thận nhặt vật tạo tác này lên và để các hạt lọt qua kẽ tay. Những đường rãnh mờ làm biến dạng bề mặt của xương nhẵn hầu như khó nhìn. Tôi đẩy aether vào mắt mình và nheo lại. Mặc dù hầu hết aether trong môi trường xung quanh chảy theo hướng tôi đã dự đoán được, nhưng có một số hạt aether bị trôi ra, bị kéo về phía chiếc vòng cổ.

Tôi nghĩ tôi đã hiểu.

“Công nghệ này chắc hẳn đã được đồng sáng tạo từ các djinn — những pháp sư cổ đại — và yêu cầu một vài khả năng vặt để truyền dẫn aether,” tôi nói, lăn tròn một hạt giữa các ngón tay.

“Tôi không hiểu ý cậu,” Emily nói, nhìn từ tôi sang Gideon.

Tôi cẩn thận đặt lại chiếc vòng cổ lên bàn.

Regis cúi xuống ngửi khúc xương cũ. “Hầu hết những tiến bộ về công nghệ của Alacrya đều đến từ các nghiên cứu của gia tộc Vritra về những hầm ngục vô tận, đầy rẫy quái vật được gọi là Khu Tàn Tích (Relictombs). Nơi đó có chức năng phân nửa là lăng mộ, phân nửa là nơi tổ chức lễ hội rùng rợn, nhưng nơi đó lại là một kho kiến ​​thức cổ xưa đầy đủ của người Dijin, cô hiểu không? Nhưng người djinn chủ yếu sử dụng phép thuật của họ với aether, thứ mà người Alacrya không thể sử dụng. Những hạt làm từ xương người djinn đã chết này đang thu hút aether.”

“Và aether là thứ bị mô phỏng dung tích để dùng cho việc điều khiển mana trực tiếp,” Gideon gợi ý thêm. Ông ta nắm lấy mấy cái áo choàng và giũ chúng thẳng xuống, sau đó dùng đầu ngón tay bắt đầu lần theo những chữ cổ tự được thêu vào lớp lót bên trong áo. “Tôi không hoàn toàn thông thạo, và các chữ cổ tự này rất phức tạp, nhưng tôi tin rằng chiếc áo choàng phục vụ một mục đích tương tự cái vòng, nhưng chỉ dành cho mana.”

Tôi kéo một góc của tấm vải này xuống để nhìn rõ hơn. “Ông nói đúng. Tôi cá rằng những chiếc áo choàng này cho phép truyền dẫn cả bốn loại mana nguyên tố. Không phải theo kiểu một người niệm phép tứ nguyên tố, nhưng khi kết hợp với vòng cổ thì đủ để kích hoạt một thiết bị đòi hỏi có đủ các thuộc tính thổ, khí, hỏa, thủy và aether để sử dụng đúng cách.”

Gideon gõ ngón tay lên bàn. “Nó có vẻ phức tạp một cách không cần thiết.”

“Nhưng có lẽ đó mới là mục đích của mấy món này,” Emily gợi ý, mặt cô rạng rỡ. “Ý tôi là, hãy nghĩ về điều đó. Nếu sức mạnh phép thuật nhận được chỉ đơn giản như đi quanh vẫy vậy một món đồ tạo tác”- cô ấy chỉ vào cây trượng - “thì bất cứ ai kiểm soát được sự ban tặng này sẽ kiểm soát mọi thứ.”

Regis trả lời: “Và bài học vỡ lòng ta rút ra được từ việc nghiên cứu cái đám bạo chúa tham quyền cố vị này là bọn chúng không thích chia sẻ quyền lực.”

Tôi nói tiếp dòng tư duy của Regis. “Những lễ ban tặng kiểu này cho phép Agrona đào tạo ra các pháp sư và nâng cao độ tinh khiết của lõi họ mà không tốn nhiều công sức, nhưng một công nghệ giống vậy sẽ cho phép, ví dụ như, một trong những Chúa tể dưới quyền hắn làm điều tương tự khi cố gắng thách thức quyền lực của hắn.”

Gideon ngâm nga suy nghĩ trong họng và cúi xuống bàn, nhìn chằm chằm vào cây trượng. “Bằng cách kiểm soát những ai hiểu cách ghép các mảnh lại với nhau để dùng như thế nào và giới hạn quyền tiếp cận các vật tạo tác phụ thuộc lẫn nhau, thì ta nắm được quyền kiểm soát toàn bộ tiến trình trao ấn.”

“Mặc dù…” Emily cắn môi nói ngập ngừng. “Nếu những vật tạo tác này có thể bị đánh cắp đơn giản…”

“Ồ, chắc chắn có những cách thức bảo vệ phụ trợ đi kèm,” Regis nói, nhảy xuống khỏi bàn. “Tạo ra sự thiếu hiểu biết một cách tỉ mỉ như thế chỉ là một phần của nó thôi. Chỉ riêng sự dọa dẫm về một cái chết kinh hoàng là đủ đối với hầu hết mọi người rồi. Nhưng tôi dám lấy cặp sừng của mình ra cá rằng có một số loại phòng hộ nào đấy hoặc bẫy được phủ lẫn vào tất cả các công nghệ này để dành cho bất kỳ ai cố gắng ăn cắp nó và sử dụng nó chống lại Agrona.”

Tất cả chúng tôi đều im lặng một lúc khi suy nghĩ về ý kiến này.

Sau đó, sự im lặng biến mất khi một vụ nổ làm rung chuyển các bức tường và kéo theo những vệt bụi từ các khe đá trên trần nhà xuống.

Chiếc bờm rực lửa của Regis dựng đứng khi cả hai chúng tôi cùng quay về phía cửa. Khói màu cam pha xám đang bao trùm bên ngoài sảnh.

Gideon cười khúc khích. “Đừng lo lắng, đó chỉ là những thử nghiệm mới mà tôi đang cố gắng cho cậu thấy.”

Không cần đợi tôi công nhận lời nói của ông ta, Gideon đi ra ngoài hành lang và hướng về nguồn vụ nổ. Emily nhún vai và ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Regis và tôi nhìn nhau, do dự để lại chiếc áo choàng và chiếc vòng cổ với những ẩn ý mà chúng tôi vừa phát hiện, nhưng vẫn đi theo Emily ngay sau khi cô ấy khóa cửa phòng thí nghiệm sau lưng.

Không xa phía dưới hành lang, làn khói dày đặc màu đỏ cam đang tỏa ra từ những cánh cửa đá nặng nề. Ngay bên trong, hai pháp sư người lùn đang sử dụng thứ trông giống như chiếc áo choàng bị cháy xém để xua làn khói tồi tệ đi.

Họ sững sờ khi nhận thấy Gideon đang dựa vào khung cửa. “Hở, xin lỗi, thưa ngài, một tia lửa từ một trong số mấy vũ khí lan qua cái chén to chứa ni-tơ tinh khiết.”

Gideon đang cười toe toét, và ông ta hít một hơi thật sâu làn khói độc hại đang bắt đầu tỏa ra. “Mấy người không thể làm món ốp-lết mà không gây ra vài vụ nổ à!”

Regis cười khúc khích. “Cậu biết không, tôi bắt đầu thích cái lão này rồi đấy.”

Emily mệt mỏi chùng xuống. “Tuyệt chưa. Giờ giống như có tận hai người quái dị giống nhau…”

Nhà phát minh già vẫy chúng tôi vào phòng, sau đó bước đi nhanh qua phòng thí nghiệm đến dãy cửa lớn thứ hai. “Các nguyên mẫu không hoàn toàn ổn định, như cậu thấy đấy, nhưng tôi thực sự nghĩ rằng cậu sẽ thích những gì chúng tôi đang làm.”

Ông ta kéo mạnh cửa, để lộ ra một căn phòng lớn hơn nhiều. Nó giống như một khu chiến tranh vậy. Những bức tường đá trơ trụi cháy đen cả trăm chỗ. Dọc theo một bức tường, một chiếc bàn kim loại xước phay đặt một số thiết bị trông kỳ lạ.

“Ta da!” Gideon chìa tay ra, cười rạng rỡ với kho vũ khí.

Tôi bước tới chỗ cái bàn và nhìn xuống một loạt các thiết bị hình ống dài, trông mơ hồ kiểu trộn lẫn lung tung giữa một bên đặt khẩu súng hỏa mai cổ và bên còn lại đặt bệ phóng tên lửa cầm tay hiện đại từ thế giới cũ của tôi. Chỉ khác là những thứ này cũng được khắc lên một chuỗi các cổ tự truyền dẫn mana. “Chúng có phải là những gì tôi nghĩ không đấy?”

“Nếu câu nghĩ chúng là vũ khí có khả năng chuyển đổi năng lượng từ muối lửa (fire salts) của người lùn thành những vụ nổ hủy diệt có khả năng thiêu rụi cả đám pháp sư lõi vàng, thì chắc chắn là vậy,” Gideon nói, xoa hai tay vào nhau và cười toe toét như một thiên tài ác quỷ trong mấy cuốn truyện tranh.

“Về mặt lý thuyết thì thế,” Emily lầm bầm, nhìn những món vũ khí với vẻ chán ghét rõ ràng.

“Tôi gọi chúng là đại bác cổ tự (rune cannons),” Gideon nói thêm, không để ý đến thái độ thiếu thiện cảm của Emily.

“Tôi muốn một cái,” Regis nói ngay lập tức, lưỡi thè khỏi miệng. “Không, làm hai cái đi. Nhanh lên, Arthur, đeo chúng vào lưng tôi.”

“Chúng chưa được hoàn thiện, nhưng khi chúng…”

“Bởi vì ‘chưa hoàn thiện’ ông ấy nói nghĩa là chúng thiếu ổn định và vẫn yêu cầu sự hiện diện của những pháp sư có khả năng truyền cả lửa và gió vào nó. Emily chỉ ra khuyết điểm. “Chúng khó sử dụng và cực kỳ nguy hiểm—”

“Mọi vấn đề chỉ ở chỗ đó thôi, đúng không?” Gideon cáu kỉnh, trừng mắt nhìn trợ lý của mình. “Và những chiếc áo choàng của lễ ban tặng thực sự đã cho tôi ý tưởng về cách ta có thể sử dụng mana dạng tinh thể và những cổ tự từng loại cụ thể để khắc phục vấn đề pháp sư. Ý tưởng của tôi là, nếu được huấn luyện tốt, bất kỳ ai cũng có thể sử dụng chúng.”

Mặc dù tôi muốn — và đã lên kế hoạch — giành chiến thắng trong cuộc chiến này, nhưng tôi hiểu rõ hơn Gideon rất nhiều về những ảnh hưởng trên diện rộng của phát minh của ông ấy, cũng như những rào cản đối với việc sử dụng nó. Vẻ do dự của tôi hẳn đã hiện rõ trên khuôn mặt, bởi vì tôi thấy sự phấn khích của Gideon đang dần mất đi. “Vậy rút cuộc là có chuyện gì?”

Tôi đã quyết định từ lâu rằng bản thân mình không đứng giữa để trở thành bộ lọc rồi ra quyết định rằng cái công nghệ nào của xứ Dicathen này nên bị thụt lùi hay cải tiến lên, nhưng tôi không thể giữ suy nghĩ trong lòng mãi. “Tôi chỉ đang nghĩ về con tàu Dicatheous.”

Emily khoanh tay và bắn cho Gideon cái nhìn biện hộ. “Thấy chưa?”

Ông ta bĩu môi và đá ngón chân xuống sàn. “Làm như tôi không nghĩ tới chuyện đó không bằng? Với một số biện pháp bảo vệ thích hợp thì—”

“Còn về đào tạo?” Tôi hỏi, cắt lời ông ta. “Chế tạo? Phân bổ? Ông đang nói về việc thay đổi hoàn toàn cách thức Dicathen chúng ta tiếp cận chiến tranh.”

Gideon dựa người vào cạnh bàn và bắt đầu gõ các ngón tay lên mặt bàn. “Đúng, đúng, nhưng để cân bằng sức mạnh giữa hai phe Dicathen và Alacrya, cũng như giữa pháp sư và phi pháp sư, một thay đổi quy mô lớn là cần thiết và chắc chắn phải có, đúng không?”

“Nghe có vẻ hơi đạo đức giả khi lo lắng về việc giao vũ khí vào tay những người không phải pháp sư trong một thế giới có những sinh vật một thân một mình đủ khả năng xóa sổ cả một quốc gia,” Regis nói đế thêm.

“Chính xác,” Gideon nói, đập mạnh tay xuống mặt bàn.

Tôi xem xét khẩu đại bác cổ tự, cân nhắc cả lời của Regis và Gideon. Có lẽ sẽ có cách nào đó để tận dụng những khám phá của Gideon mà không phải giao cho những người lính chưa qua đào tạo những thứ vũ khí có thể làm nổ tung khuôn mặt cả của họ lẫn của chúng ta theo đúng nghĩa đen.

“Nói thêm cho tôi nghe,” tôi nói. “Đặc biệt là về muối lửa.”

Nhà phát minh lập dị đã đưa ra lời giải thích nhanh chóng về nhiều khám phá của ông ấy và rất nhiều thí nghiệm đã dẫn ông ta đến phát minh này, và khi nói chuyện, một ý tưởng nảy sinh trong đầu tôi.

Mặc dù vậy, Gideon nói đúng. Chúng tôi cần cách nào đó để làm cho những người lính không phải pháp sư của chúng tôi trở nên hữu dụng hơn.

Ngay khi tôi vừa mở miệng giải thích ý tưởng, một vụ nổ khác làm rung chuyển các đường hầm dưới lòng đất — cái này nghe có vẻ ồn hơn và ở xa hơn. Tôi ném cho Gideon một cái nhìn dò hỏi.

Ông ấy chuyển ánh nhìn từ tôi sang Emily rồi quay lại tôi. Mặt ông ta tái đi. “Đó không phải trò của tôi.

Người dịch: Nightmoonlight

Truyện Chữ Hay